Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019

Những quái vật Metal của Judas Priest


Những quái vật Metal của Judas Priest


Judas Priest - the Metal stereotypes

Bạn thường liên tưởng đến điều gì khi người ta nhắc đến nhạc metal?

  • ·       Những bộ đồ da bóng lộn với gai nhọn tua tủa?
  • ·       Những gã tóc dài hung hãn xăm trổ đầy mình?
  • ·       Những chiếc xe phân khối lớn với tiếng động cơ gào rú?
  • ·       Giọng hát truyền lửa xen lẫn với những tiếng thét đinh tai?
  • ·       Những đoạn riff mạnh mẽ và solo battle từ cặp song tấu guitar?
  • ·       Những nhịp dồn trống bass nhanh và mạnh như súng liên thanh?


Và bạn có ngạc nhiên không khi mà tất cả những stereotypes của metal đó đều bắt nguồn từ duy nhất và chỉ một ban nhạc: Judas Priest. Luôn là những người định hình ra trào lưu, hình ảnh và âm nhạc của Judas Priest có tầm ảnh hưởng hết sức quan trọng tới sự phát triển của dòng nhạc metal, từ trào lưu New wave of Bristish heavy metal, tới truyền cảm hứng cho sự trỗi dậy của Big 4 làng nhạc metal nước Mỹ. Đóng góp những sáng tạo không ngừng nghỉ của mình cho metal, Judas Priest đã góp phần đưa thể loại âm nhạc này từ dưới underground ở các hộp đêm bình dân lên tới mainstream trước các sân vận động lớn với hàng vạn khán giả.

Nếu được hỏi ai đã tạo ra nhạc metal, thì chắc câu trả lời sẽ là Black Sabbath, mặc dù những đoạn riff hay âm hưởng tăm tối bằng thủ thuật hạ tông đàn của heavy metal đã được nhen nhóm từ những ban nhạc rock ra đời trước đó vào cuối thập niên 70. Thế nhưng có thể nói rằng, Black Sabbath là người thợ rèn đã tạo ra cái khuôn của cây kiếm metal, còn Judas Priest đã định hình và mài sắc metal đến hình dạng như chúng ta biết ngày nay.

Ảnh hưởng quá mạnh mẽ của phong cách “thời trang” của Judas Priest đến làng nhạc metal cũng có một mặt trái là làm người ta “quên” mất những đóng góp to lớn của họ về mặt âm nhạc. Nếu bạn chưa từng nghe Judas Priest bao giờ, có lẽ bạn sẽ thấy các bài hát của họ thật chẳng có gì đặc biệt, “ban nhạc metal nào chẳng chơi như thế”. Và mấu chốt chính là ở điểm đó, đã có quá nhiều ban nhạc học hỏi từ cách chơi của Judas Priest đến nỗi nhạc của họ trở thành chuẩn mực. Không đóng góp theo kiểu sáng tạo ra những thứ đầu tiên, Judas Priest là những người đi đầu trong việc kết hợp các yếu tố tinh túy nhất của các thể loại nhạc đương thời để tạo nên một thực thể hoàn chỉnh. Cũng giống như cách đóng góp của Led Zeppelin cho nền âm nhạc thế giới qua việc phối trộn hoàn hảo giữa rock và blues, Judas Priest đã kết hợp rất tài tình chất hard rock của Deep Purple với phong cách metal vừa được ban nhạc cùng thời Black Sabbath tạo ra.

Judas Priest cũng là ban nhạc đầu tiên đưa song tấu guitar lên đúng vị trí của nó. Việc hai guitar cùng chơi đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhạc rock, nhưng các ban nhạc trước đây vốn chỉ dùng nó như một cách câu khách hơn là vì giá trị âm nhạc. Với cặp song tấu Glenn Tipton và K. K. Downing, cùng nhau chơi riff và cũng cùng đánh solo trong một bài hát, Judas Priest đã khiến việc sử dụng song tấu guitar trở thành một phần không thể thiếu nếu một ban nhạc muốn thực sự chơi heavy metal. Tipton và Downing là những tay guitarist có trình độ rất giỏi, nhưng thật khập khiễng nếu xếp họ ngang hàng với những tay đàn huyền thoại như Jimmy Hendrix, Jimmy Page, hay Ritchie Blackmoore. Thế nhưng, sự kết hợp giữa hai tay guitar này mới thực sự là điều đáng nói và theo ý kiến cá nhân của tôi thì song tấu này xứng đáng là bộ đôi guitar hay nhất mọi thời đại. Nếu Tipton đánh thiên về kỹ thuật, như một tay đàn classical cần mẫn tấu lên những giai điệu nuột nà, thì K.K. Downing đại diện cho sự hỗn loạn và hoang dã khi liên tục tạo ra những âm thanh khó nghe từ cây đàn điện một cách đầy ngẫu hứng. Như đại diện cho nước và lửa, khi hai tay guitarist này cùng kết hợp với nhau trong các bài hát của Judas Priest, bỗng chốc âm nhạc của họ đạt đến một sự cân bằng tối thượng. Đó chính là mấu chốt cho sự hòa nhập hoàn hảo của chất nhạc hard rock với cách chơi thiên về blues của Tipton và metal với những âm thanh “wham wham” nặng distortion của Downing.

Cũng không thể không nhắc đến chuẩn mực về một metal vocalist mà Rob Halford của Judas Priest đã tạo ra. Sở hữu một chất giọng trời phú với quãng hát rộng hơn người thường, Halford chính là Freddie Mercury phiên bản metal. Giọng hát của Halford như một nhạc cụ bổ sung cho ban nhạc vậy, có lúc trầm và nặng như tiếng guitar bass, nhưng có những lúc giọng ca opera của ông lại vươn tới những note cao như tiếng rít của cây guitar điện. Quả thực, cách hát của Halford đã có tầm ảnh hưởng cực lớn đến hầu hết tất cả ban nhạc sau này. Họ đều cố hát giống ông, nhưng cuối cùng giọng hát của Halford vẫn chỉ là duy nhất.

Đề tài trong các nhạc phẩm của Judas Priest cũng là chuẩn mực thông thường của các ban nhạc hard rock và metal, xoay quanh các vấn đề như tình yêu, tình dục, party, ma túy hay chiến tranh. Đại khái là những thứ không quá cao siêu. Nhưng có một đề tài đặc biệt cũng đã theo suốt trong sự nghiệp âm nhạc của ban nhạc này, đó là những quái vật metal (metal monsters). Nếu đã chơi metal thì tất nhiên nội dung của bài hát cũng phải bạo lực một cách tương ứng. Thế nhưng nếu sử dụng góc nhìn thứ nhất để nói về các ham muốn giết người hay tiêu diệt nhân loại thì có phần hơi quá cực đoan. Một cách đơn giản để tránh khỏi vấn đề này là viết bài hát về suy nghĩ của các quái vật trong tưởng tượng hay các nhân vật tàn ác trong lịch sử. Và Judas Priest đã sử dụng phương pháp này để thể hiện được tính chất aggressive tương ứng với thứ âm nhạc mà họ chơi. Cách này cũng được nhiều ban nhạc sau này sử dụng triệt để để tránh bị ảnh hưởng tới các vụ kiện tụng, trong đó điển hình nhất có lẽ là Slayer, một ban nhạc nổi tiếng vì những lời hát cực đoan và gây tranh cãi. Cũng thật kỳ lạ thay là những quái vật metal ấy đã vô tình trở thành một phần gắn bó với từng bước đi trong sự nghiệp vinh quang của ban nhạc và các bài hát về chủ đề ấy đều thể hiện rõ ràng sự phát triển không ngừng của âm nhạc Judas Priest nói riêng và xu hướng nhạc metal thế giới nói chung.

The Ripper - Sad Wings of Destiny

Những khu nhà ở cho người lao động nghèo khó ở ngoại ô thành phố công nghiệp Birmingham, Anh Quốc lại là nơi sản sinh ra những thành viên của hai ban nhạc có tầm ảnh hưởng lớn nhất tới nhạc metal: Judas Priest và Black Sabbath. Họ là những đứa trẻ lớn lên trong bầu không khí nóng nực từ những nhà máy công nghiệp hoạt động không ngừng nghỉ suốt ngày đêm, bao bọc cả thành phố bằng một làn sương mù âm u và dày đặc kim loại nặng. Phục vụ cho những nhà máy đó là hàng vạn công nhân lao động nghèo khó, cả đời chỉ biết đến ca kíp suốt ngày đêm, bỏ mặc lũ trẻ mà chẳng có ai trông coi. Những âm thanh đinh tai nhức óc từ những phân xưởng ấy cứ bám dính lấy cuộc sống của những cư dân trong thành phố. Nào là tiếng máy dập ầm ầm từng nhịp mạnh đến rung cả tường trường học như sự phối hợp của tiếng trống và tiếng guitar bass vậy, nào là tiếng máy hàn, máy cắt xèo xèo qua kim loại như tiếng distortion của những cây guitar điện, nào là tiếng rít của những thanh sắt va chạm vào nhau như tiếng hét đinh tai nhức óc. Cứ thế, heavy metal đã ăn sâu vào máu thịt của cả một thế hệ, để rồi sau này chính những âm thanh, cùng bầu không khí u ám ấy, dù vô tình hay cố ý, đã xuất hiện trở lại trong các sáng tác của cả hai ban nhạc.

Thành phố Birmingham những năm 1960

Nếu như Black Sabbath thành công rực rỡ ngay ở album đầu tay, thì Judas Priest có một khởi đầu vất vả hơn rất nhiều. Họ phải mất 10 năm tìm kiếm hướng đi cho âm nhạc của mình, thử sức ở nhiều thể loại khác nhau từ hard rock, psychedelic rock, đến heavy metal tempo chậm theo phong cách của Black Sabbath. Những năm tháng đó là những năm tháng khó khăn nhất trong sự nghiệp của ban nhạc, có những lúc họ không còn chút tiền nào. Họ phải dành dụm từng chút một, ăn mỗi ngày chỉ một bữa và làm thêm nhiều công việc lao động chân tay khác để có tiền nuôi ước mơ âm nhạc của mình. Thế nhưng, bằng tình yêu với metal và niềm tin vào khả năng của bản thân, họ vẫn không bỏ cuộc, vẫn nỗ lực thay đổi phong cách âm nhạc và tự hoàn thiện mình. Sau album đầu tay Rocka Rolla mang phong cách hard rock thất bại nặng nề, Judas Priest buộc phải thay đổi phong cách trong album thứ hai Sad Wings of Destiny. Trong khi, phân nửa các bài hát trong album này bị ảnh hưởng bởi phong cách của Deep Purple và phần còn lại là bởi Black Sabbath, thì đã xuất hiện một bài hát duy nhất mang dấu ấn Judas Priest của tương lai: The Ripper.


Jack “The Ripper” là một kẻ sát nhân máu lạnh ở vùng Whitechaple, một khu ngoại ô nghèo khó ở thủ đô London. Nổi tiếng vì không bao giờ bị bắt, cùng với cách thức giết người dã man, hắn đã ra tay gây ra liên tiếp năm vụ giết người trong vòng vài tháng, reo rắc nỗi kinh hoàng cho người dân London. The Ripper được cho là ẩn mình trong bóng tối chờ cơ hội ra tay “I smile when I'm sneaking through shadows by the wall”. Hắn sẽ ập vào ra tay cắt cổ nạn nhân nhưng cho con mồi đủ thời gian để mà sợ hãi “You'll soon shake with fear, never knowing if I'm near”. Sau khi giết hại con mồi, The Ripper sẽ mổ bụng và lấy đi nội tạng của nạn nhân một cách rất hoàn hảo khiến cảnh sát nghi ngờ kẻ giết người này có kỹ năng giải phẫu chuyên nghiệp. Một thời gian sau, hắn gửi các bộ phận nội tạng được bảo quản cẩn thận đến cảnh sát, kèm theo những bức thư thách thức chính quyền. Sử dụng hình ảnh của một quái vật “devil in disguise”, Judas Priest có thể thỏa sức chơi thứ âm nhạc tăm tối nhất có thể nghĩ ra. Phô diễn hoàn hảo sự kết hợp của điệu riff mạnh mẽ với nhiều âm câm nhằm mô phỏng lại cảm xúc của tên giết người đang rình rập con mồi nhưng vẫn giữ được những âm điệu của nhạc blues, cùng với đó là giọng ca lần đầu tiên được bung ra hết sức của Halford như tiếng thét của những nạn nhân xấu số, Judas Priest cuối cùng đã tìm ra công thức phù hợp cho âm nhạc của mình. Chính cái bầu không khí tối tăm và bạo lực ấy đã truyền cảm hứng cho trào lưu metal những năm 1980 tại Mỹ với những cái tên như Slayer, Metallica hay Megadeth.

Sinner - Sin after Sin

Với album thứ ba Sin after Sin, âm nhạc của Judas Priest lại tiếp tục “tiến hóa”, rũ bỏ dần gốc nhạc blues để theo đuổi những âm thanh mạnh mẽ hơn nữa. Và không có minh chứng nào rõ hơn cho sự phát triển này là bài hát đầu tiên của album: Sinner. Bài hát viết về hình tượng một kẻ phản Chúa cưỡi xe phân khối lớn xuống trần gian để hủy diệt loài người: “The devil rides beside him. The devil is his god”. Đó là những lời cổ xúy của Judas Priest rằng thà chết vì rượu và ma túy còn hơn là chết dưới tay của the Sinner: “Sacrifice to vice or die by the hand of the Sinner!” Đằng nào ta chả phải chết, hãy phạm đủ thứ tội lỗi trên đời này đi vì chẳng có Đấng cứu thế nào đâu mà phải sợ hãi vớ vẩn. Với những hình ảnh như “See the mountains darken yonder. Black sun rising, time is running out” hay “Can't you hear their souls calling out in their plight. Can't you see their blood is boiling setting them alight”, Judas Priest hù dọa người nghe về một ngày tận thế mà loài người phải hứng chịu, hệt những kẻ truyền đạo suốt ngày rao giảng ở các nhà thờ. Nhưng đây là những tu sĩ của Judas chứ không phải của Jesus, họ muốn người nghe phải hiểu rằng nếu ngày tận thế có đến thì sẽ chẳng có ai rảnh đến cứu rỗi những kẻ sùng đạo đâu.


Ngay trong bài hát đầu tiên của album này, điệu riff 16 notes kinh điển do Deep Purple sáng tạo ra đã được Judas Priest đưa vào trở thành công thức cơ bản cho những đoạn nhạc metal hiện đại. Nếu như điệu riff ấy xuất hiện trong nhạc của Deep Purple một cách thi thoảng, thì Judas Priest đã sử dụng nó triệt để trong từng bài hát của mình. Kết hợp với điệu riff ấy, Judas Priest tiên phong trong việc sử dụng điệu bass 16 notes song song với nhịp trống double kicks. Với việc ứng dụng cách chơi rất tốn thể lực này, tiết tấu và nhịp độ của bài hát được đẩy lên rất cao, giúp tăng tính aggressive trong âm nhạc lên gấp nhiều lần. Sinner cũng giới thiệu lần đầu tiên cho công chúng một trận solo battle của hai guitarist là như thế nào. Đây là một tác phẩm thể hiện rõ rệt nhất hai phong cách chơi nhạc khắc nhau như nước với lửa của hai lead guitarist của ban nhạc. Nếu như Tipton chơi solo một cách hoàn hảo và tròn trịa như trong sách giáo khoa, thì K. K. Downing đã lần đầu tiên cho người nghe biết thế nào là một guitarist đánh metal. Ra sức tạo ra những âm thanh chói tai và hỗn loạn với mức distortion cao, Downing chơi ngẫu hứng một cách hoang dại như Jimmy Page “on steroid” vậy. Nhưng có lẽ với cách chơi của mình, Led Zeppelin sẽ không thể hỗ trợ được cho Jimmy Page chơi một cách hoang dã như K. K. Downing được thỏa sức chơi trong Sinner.

Exciter - Stained Class

Racing' cross the heavens
Straight into the dawn
Looking like a comet
Slicing through the morn
Scorching the horizon
Blazing to the land
Now he's here amongst us
The age of fire's at hand


Nhanh, gọn, nhưng không hề nhẹ. Đó là những câu hát đầu tiên của một album đã định hình ra metal hiện đại và phất ngọn cờ đầu đưa làn sóng metal lần thứ hai nhấn chìm cả thế giới - The new wave of British heavy metal - với những cái tên lừng danh như Iron Maiden, Motorhead, hay Saxon. Âm nhạc của Judas Priest đã rất tuyệt vời và giờ họ chỉ cần cho thêm một chút gia vị là đã có một món ăn hoàn hảo. Đó là những câu hát ngắn gọn, đó là một chút aggressive trong lời hát và thế là đủ. Ở vào thời điểm đó, không có ban nhạc nào chơi như Judas Priest, không có thứ gì nặng hơn nhạc Judas Priest, không ban nhạc nào ăn mặc ngầu như Judas Priest. Judas Priest đã trở thành định nghĩa của metal. Exciter là cái gì vậy? Một con quái vật cũng từ thiên đàng rơi xuống và bùng cháy như sao chổi, truyền lửa cho cả nhân loại. “The age of fire’s at hand” - thời đại của metal đã trở lại với Exciter là Judas Priest. Họ đã cứu rỗi cho metal “Stand by for exciter. Salvation is his task.” Nên nhớ Judas Priest là lứa đầu tiên của dòng nhạc metal, một dòng nhạc đang chết dần chết mòn với sự trỗi dậy của nhạc punk, thứ nhạc cắt gọt và đơn giản hóa các phần instrumental của lũ thanh niên edgy chán đời. Trong khi Deep Purple đã tan rã, Led Zeppelin cũng gần như vậy và Black Sabbath đang chuẩn bị chia tay Ozzy, Stained Class với Exciter chính là ngón tay thối của metal chĩa về phía nhạc punk – “Fall to your knees and repent if you please”.

The Hellion - Screaming for Vengeance

Sau Stained Class, Judas Priest cho ra đời hàng loạt album tiếp theo với mục tiêu thương mại hóa và dần đánh mất đi bản sắc của mình, lần lượt là Killing Machine, British Steel đỉnh điểm là Point of Entry. Tuy đó không phải là những tác phẩm dở tệ, ví dụ như Breaking the Law hay Living After Midnight với những âm thanh nghe thật bắt tai, rất phù hợp để lên sóng radio và cuốn hút công chúng Mỹ cùng thứ văn hóa fastfood truyền thống. Nhưng đó quả thực là một Judas Priest làm nhạc để bán album chứ không phải làm album vì âm nhạc. Trước những chỉ trích những fan metal chân chính, Judas Priest đứng trước hai lựa chọn: tiếp tục sell-out hay trở về với bản chất của mình.


Judas Priest cuối cùng đã chọn hướng đi thứ hai với Screaming for Vengeance. Để thể hiện rằng chúng tôi vẫn theo đuổi heavy metal, tác phẩm đầu tiên phải thật mạnh mẽ và xứng đáng thể hiện tuyên ngôn của ban nhạc và đó là Hellion. Hellion là một bản instrumental với tốc độ cao nhất mà Judas Priest đã từng chơi, được minh họa bằng chính cover art của album này, một con quái vật đại bàng tung cánh trên bầu trời. Đôi cánh bằng metal của nó đã đưa Judas Priest trở lại với vị trí tiên phong của mình. Kết hợp với Electric Eye, Hellion đã trở thành một trong những intro hay nhất trong lịch sử âm nhạc, mở màn cho hàng loạt live show thành công cho Judas Priest trên khắp thế giới.

The Sentinel - Defenders of the Faith

Đánh dấu sự trở lại của Judas Priest nhưng Screaming for Vengeance vẫn còn đâu đó hơi hướng thương mại trong một số bài hát của mình. Album tiếp theo được ra đời năm 1984 - Defenders of the Faith - đã thể hiện rõ ràng mong muốn gạt bỏ tính chất thương mại ấy bằng một phong cách metal máu lửa hơn nữa - “the Master of all metal”. Defenders of the Faith đã đưa Judas Priest lên đỉnh cao nhất của sự nghiệp âm nhạc, trở thành những ngôi sao đẳng cấp quốc tế, thống trị thế giới theo đúng phong cách của mình. Đại diện cho album là tác phẩm The Sentinel được chơi rất nhanh và nặng, phải nói là nặng nhất vào thời điểm đó, nhưng ở đó không mất đi chất melodic nhờ tiếng đàn của Tipton. Judas Priest đã quay trở lại với công thức thành công của mình trong bài hát này với một tốc độ chưa bao giờ nhanh đến thế: giọng hát screaming của Halford, trống double kicks và bass 16 notes, solo battle của hai lead guitarist, lời hát ngắn gọn và aggressive.


The Sentinel viết về một thế giới hậu tận thế với những phong cảnh hoang tàn như “deserted avenues”, “Dogs whine in the alleys. Smoke is on the wind”, hay “upturned burned-out cars”. Ở đó, có hai thế lực đối đầu nhau, the Sentinel “the challengers await”. Chỉ chờ tiếng chuông nhà thờ ngừng điểm “As the bell ceases its chime”, hai phe lao vào cuộc chiến đẫm máu “Screams of pain and agony rent the silent air. Amidst the dying bodies. Blood runs everywhere”. Và cuối cùng the Sentinel đã chiến thắng trong vô cảm: “The figure stands expressionless, impassive and alone. Unmoved by this victory and the seeds of death he's sown”. Phải chăng hắn đã mất hết nhân tính hay đã quá quen với công việc giết chóc này? Hay phải chăng những kẻ đã chết dưới lưỡi dao của hắn xứng đáng phải chịu án tử?

Nếu bạn nghĩ The Sentinel chỉ là một bài hát vu vơ, mượn tạm một con quái vật nào đó để thể hiện cho sự aggressive của ban nhạc, thì có lẽ bạn đã nhầm. Chẳng có lý do gì mà hình ảnh nhà thờ được lặp lại nhiều lần đến thế. Tại sao the Sentinel đến để trả thù “Sworn to avenge”? Tại sao hắn bị “Condemn to Hell”? Sentinel trong truyện viễn tưởng vốn là những kẻ sinh ra để bảo vệ một thứ gì đó, nhưng ở đây có vẻ hắn đã làm ngược lại mục đích của mình. Hãy nghĩ xem trong tôn giáo, có kẻ nào trước đây là một môn đệ trung thành, là một trong những kẻ sinh ra để bảo vệ đạo Thiên Chúa - Defenders of the Faith, nhưng cuối cùng lại trở thành kẻ phản bội, thành hóa thân của Satan. Đó chính là Judas, kẻ bị đầy dưới tầng địa ngục cuối cùng của Dante, nay đã trở lại để tận diệt những mầm mống cuối cùng của loài người.  

Sworn to avenge
Condemn to Hell
Tempt not the blade
All fear the Sentinel

Painkiller

Sau đỉnh cao của Defenders of the Faith là những năm tháng tồi tệ nhất kể từ khi ban nhạc hình thành. Judas Priest lại một lần nữa lạc lối khi cố gắng xây dựng một phong cách pop metal với sự can thiệp quá tay của nhạc điện tử và những bài hát ballad mùi mẫn qua hai album Turbo Ram it down.  Trong khi đang quay cuồng với con đường âm nhạc của mình thì họ lại dính vào một vụ kiện động trời chỉ vì một bản cover được đưa vào phút cuối trong album đỉnh cao Stained Class: Better by you, better by me. Judas Priest bị cho rằng đã chèn thêm một thông điệp ngầm trong bài hát là: do it, dẫn đến vụ tự tử của hai thanh niên trẻ nghiện ngập. Một người tự dí shotgun vào cằm tự bắn nổ đầu mình và một người còn lại sống sót được thêm ba năm rồi chết. Mặc dù Judas Priest đã trắng án, nhưng cả quá trình kiện tụng đã bòn rút hết sức mạnh của cả ban nhạc và đưa họ vào những trận cãi vã không có điểm dừng. Judas Priest yếu đi thì những ban nhạc thrash trẻ hơn, chơi aggressive hơn đã ngóc lên từ underground: Slayer, Megadeth, Metallica và Anthrax là những cái tên nổi bật nhất. Những metalhead như những con nghiện nhờn thuốc vậy, sau Defenders of the Faith, họ muốn tìm thứ gì đó bạo lực hơn thế nữa và có vẻ Judas Priest và thứ heavy metal của mình đã hết thời.

Tháng 9/1990, album Painkiller và bài hát cùng tên ra đời trong sự ngỡ ngàng của công chúng yêu nhạc metal, chỉ sáu tháng sau khi kết thúc vụ kiện. Từ đống tro tàn đổ nát, Painkiller xuất hiện với “Terrifying scream”, ngạo nghễ cưỡi trên mình một cỗ xe nửa máy móc và nửa là rắn hổ mang “rides the metal monster”. Painkiller không phải ai khác mà chính là Rob Halford. Ông quay trở lại để cứu rỗi cho ban nhạc và cho cả heavy metal như một vị Chúa tái thế vậy: “A savior comes from out the skies in answer to their pleas”. Halford đã hát đến những note mà có lẽ chúng ta cũng nên nghi ngờ ông ấy có phải thực sự là “half man and half machine” hay không? Và cũng không có gì mô tả tốt hơn về tuyệt phẩm này hơn là chính những câu hát:

Faster then a laser bullet
Louder than an atom bomb
Chromium plated boiling metal
Brighter than a thousand suns


Ở tác phẩm này, K. K. Downing như con thú dữ được cởi trói, thỏa sức chơi thứ âm nhạc aggressive nhất khi được cùng kết hợp với tay trống mới Scotts Travis của ban nhạc tốc độ như cái tên của họ: RacerX. Thế nhưng ẩn sâu bên trong bài hát, cái phong cách metal của Judas Priest vẫn thế vì vẫn còn Tipton ở đó cặm cụ sweep picking ra những nốt nhạc hoàn hảo. Painkiller là một trong những ca khúc metal nặng nhất, thỏa mãn cơn khát của những metalhead đang ngóng trông, nhưng cái nặng của bài hát nằm trong giai điệu chứ không phải nhịp độ hay những âm thanh chói tai. Painkiller đã một lần nữa đưa Judas Priest trở lại thống trị metal.

Và nếu như bạn bị nhức mỏi, đau đầu, hãy bật bài hát này lên mà nghe. Bởi vì: “This … is … the … Painkiller”.

Jugulator

Painkiller hóa ra cũng là lời chia tay của Halford với ban nhạc để theo đuổi sự nghiệp solo của mình. Sau sự ra đi của ông, Judas Priest ngừng hoạt động trong suốt những năm 1990’s, nhường chỗ cho sự phát triển của groove metal, một thứ metal giật cục, chú trọng vào tiếng ồn hơn là giai điệu. Chỉ vài năm sau đó, Halford công khai với cả thế giới rằng mình bị gay. Một cú sốc lớn cho hình tượng của một frontman nhạc metal gai góc và nam tính. Halford ra đi có phải vì ông không muốn sự thực này ảnh hưởng đến hình ảnh của ban nhạc hay do những tranh cãi với K. K. Downing về đường hướng phát triển của ban nhạc?

Phải đến năm 1997, album tiếp theo Jugulator đã ra đời, được mở đầu với tác phẩm cùng tên. Nghe Jugulator ta thấy phong cách âm nhạc của Judas Priest lại một lần nữa bị đánh mất. Không có sự hòa hợp và cân bằng quen thuộc, cái chất groove metal như của Pantera hay thrash metal của Metallica thời kỳ đầu đã xâm chiếm toàn bộ bài hát này và cả hai album Jugulator Demolition. Judas Priest buộc phải chơi mà không có Halford, với người thay thế cho ông là Tim “the Ripper” Owens. Sự kết hợp với Owens như một câu chuyện cổ tích vậy, một fan hâm mộ cuồng nhiệt của Judas Priest lập ra một ban nhạc cover thần tượng của mình, rồi để một ngày được sống với giấc mơ trở thành frontman của ban nhạc mà mình cover. Nhưng Owens không phải là người định hình âm nhạc cho Judas Priest giai đoạn này mà chính là K. K. Downing với Tipton cùng chia nhau sáng tác các bài hát.


Jugulator chính là cover art của album, một con quái vật man rợ và tàn bạo đang xẻ thịt con mồi của nó “Reaches in and rips your spine out”. Judas Priest thường viết về metal monster nhưng không bao giờ họ dùng cái chất gore làm đại diện âm nhạc của mình. Các fan hâm mộ của ban nhạc đã quá quen việc Judas Priest là ban nhạc tiên phong dẫn dắt metal chứ không phải là kẻ theo sau trào lưu của thời đại. Có lẽ vì thế, cả hai album này đều không được các fan ruột của ban nhạc đón nhận và chịu rating thảm hại từ các nhà phê bình âm nhạc. Thế nhưng, theo quan điểm cá nhân của tôi, Judas Priest chơi không quá tệ, thậm chí có những bài hát xứng đáng được đưa vào top hay nhất của ban nhạc như: Jugulator, Burn in Hell, Cathedral Spires, Machine Man hay One on One. Owens là một ca sỹ rất tài năng với sức trẻ và độ brutal hơn rất nhiều so với Halford, ít nhất anh này hát hay gấp vạn lần các ca sỹ chính của các ban nhạc groove hay thrash metal thời bấy giờ như Pantera, Machine Head, hay Metallica. Cùng với đó, ở đằng sau những cây đàn vẫn là những thành viên ban đầu của Judas Priest, chỉ khác là họ bỏ bớt giai điệu đi và tăng distortion lên nữa mà thôi. Jugulator Demolition là thứ âm nhạc nặng nhất mà Judas Priest từng chơi và chúng xứng đáng nhận được sự tôn trọng hơn từ các fan của ban nhạc và của chính từ các thành viên ban đầu của ban nhạc - những người cố gắng xóa giai đoạn này đi khỏi lịch sử vang dội của Judas Priest.

Hellrider - Angel of Retribution

Phải mất 15 năm mới đủ để Halford, Hill, Downing và Tipton hiểu ra rằng họ cần nhau đến như thế nào. Kỳ lạ thay trong quãng thời gian này, hàng loạt những tên tuổi của New wave of Bristish heavy metal cũng bỗng nhiên tìm về với nhau sau hàng thập kỷ tan rã. Angel of Retribution ra đời như là một sự hối tiếc muộn màng của Judas Priest. Đáng lẽ ra họ đã có thể liên tục ra những album như vậy để nối tiếp thành công của Painkiller mới phải. Giờ đây thời gian đã lấy đi sức mạnh và cao độ của Halford, khiến cả ban nhạc phải cùng nhau chơi hạ tông xuống để đỡ cho ông. Những guitarist trẻ thời nay cũng đang chơi đàn càng nhanh và kỹ thuật hơn trong khi Downing và Tipton đã tới tuổi xế chiều.

Bài hát hay nhất trong album này có lẽ là Hellrider, lại là một gã biker từ địa ngục trong tưởng tượng của Halford. Ý nghĩa bài hát đúng là chỉ có vậy, nó mang nhiều tính chất hoài niệm nhiều hơn là một sự đột phá táo bạo. Nếu có gì đáng nói thì chắc đó là sự kết hợp hoàn hảo lần cuối cùng của cặp đôi Downing và Tipton, trong phong cách âm nhạc mà Judas Priest đã hết sức thành công. Sau album tiếp theo thất bại thảm hại về cả mặt tài chính lẫn âm nhạc, K. K. Downing đã gác đàn trở về quê dưỡng già và tận hưởng niềm vui thú đánh golf.


Spectre - Firepower

Mùa hè năm 2017, quả thực tôi rất bất ngờ khi lên Youtube và nhìn thấy một video mới từ Judas Priest Vevo. Đó là một đoạn demo ngắn của bài hát Lighting Strike. Ngay lập tức tôi đã choáng ngợp với cách chơi của Judas Priest và đi lùng mua ngay album này. Phải nhớ rằng lúc này những thành viên ban nhạc đã là những ông già tuổi 60, cùng lắm thì thỉnh thoảng có thể kiếm tiền bằng những tour nhạc lay lắt dành cho những metalhead hoài cổ. Thậm chí những ban nhạc metal theo sau họ trong những năm 80, 90 cũng đã lần lượt giải nghệ và chấp nhận cái chết của heavy metal. Càng bất ngờ hơn nữa vì đáng lẽ Epitaph World Tour năm 2012 đã là tour diễn chia tay của ban nhạc rồi. Thế nhưng, thực sự Judas Priest đã quay trở lại và lại tiếp tục đi tiên phong để nhắc người ta rằng classic heavy metal vẫn còn đó. Vẫn là cái chất của Judas Priest thời Painkiller, nhưng âm nhạc của họ giờ đây đã có những giai điệu mới mẻ hơn từ cách chơi của tay guitarist mới Richard Faulkner, người thay thế cho K. K. Downing. Mặc dù rất hâm mộ bộ đôi Downing và Tipton, nhưng tôi cũng phải thừa nhận rằng Judas Priest bây giờ cần sức sống của Faulker để đi tiếp ở thời đại ngày nay.


Trong album rất hay này thì có lẽ Spectre thể hiện rõ nhất sự đổi mới về âm thanh của Judas Priest. Họ đánh mạnh và hiện đại nhờ tiếng lead của Faulker, nhưng vẫn giữ được cái chất Judas Priest trong bài hát một cách tinh tế. Không cần chơi quá nhanh, Judas Priest đã chủ động giữ nhịp độ trung bình và phả vào bài hát một giai điệu tăm tối rất phù hợp với ngữ cảnh. Viết về cảm giác của một con vampire đang reo rắc nỗi kinh hoàng trong màn đêm: “Like a thief in the night with the blade held tight”, Judas Priest muốn nói gì? Hay họ muốn nhắc chúng ta rằng di sản âm nhạc đồ sộ của họ sẽ mãi mãi bất tử. Judas Priest sẽ không bao giờ dừng lại “This man will stop at nothing to always get his way”, sẽ liên tục thay máu để trường tồn dù cho thời gian đổi thay thế nào đi chăng nữa “He kills to heal himself”.

Quả thực, Judas Priest đã cho một người đam mê heavy metal như tôi có quyền hy vọng. Liệu một ngày nào đó lang thang Youtube, có thể tình cơ tôi lại thấy một sáng tác mới của ban nhạc huyền thoại này thì sao? Cho dù tiếng hát cất lên không còn là của Halford, tiếng bass cũng của ai đấy chứ không phải của Ian Hill, cũng không còn điệu trống dồn dập của Travis hay những đoạn phối hợp solo hoàn hảo của Downing và Tipton. Thậm chí kể cả khi cái tên Judas Priest rồi cũng sẽ không còn. Dù gì đi chăng nữa, heavy metal vẫn sẽ tìm cách trở lại, như đã bao nhiêu lần nó đã trở lại dưới ngọn cờ của Judas Priest trong lịch sử huy hoàng của nó.

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2019

In the Court of the Crimson King: Nguyên lý cơ bản của Progressive Rock



In the Court of the Crimson King: Nguyên lý cơ bản của Progressive Rock


King Crimson - những kẻ thách thức thời đại

Trên đời, ai sinh ra mà chẳng muốn mình được đặc biệt. Cái khát khao ấy lại càng cháy bỏng hơn nữa với người nghệ sỹ, những người luôn muốn cống hiến tất cả những gì mình có để có thể để lại một thứ gì đó cho nhân loại, để tên tuổi họ vẫn luôn được xướng danh cho tới muôn đời sau. King Crimson được thành lập với mục tiêu duy nhất là thỏa mãn cái khát khao chảy bỏng đó. Có thể nói rằng King Crimson được sinh ra để thách thức dòng nhạc rock ở thời điểm đỉnh cao nhất, đang là trào lưu âm nhạc của thời đại với những cái tên như the Beatles, the Kinks, the Rolling Stones, Led Zepplelin, hay the Jimmy Hendrix Experience. Nếu như nhạc rock phổ biến thời đó thường lấy gốc từ nhạc blues rồi đơn giản hóa, gai góc hóa, với lời hát xoay quanh những vấn đề về tình yêu và tình dục, chống đối lại chính quyền và phản chiến, thì King Crimson muốn làm ngược lại, muốn viết về những chủ đề siêu thực hơn. Không muốn phải giống những ban nhạc cùng thời, King Crimson rẽ nhạc rock sang một hướng đi khác, ngẫu hứng và phá cách hơn nữa. Âm nhạc của họ phải ở một tầm cao mới, thật phức tạp và lạ lẫm.

Chính vì vậy, album đầu tay của ban nhạc In the Court of the Crimson King đã ra đời, là sự phối trộn của chất rock mạnh mẽ với sự ngẫu hứng của nhạc jazz và sự phức tạp của nhạc giao hưởng. Album này là dấu mốc hết sức quan trọng trong lịch sử nhạc rock, là album Progressive Rock đầu tiên, với tầm ảnh hưởng không kém “The Dark Side of the Moon” của Pink Floyd. Quả thật King Crimson đã làm được những gì mình muốn ở ngay album đầu tay của mình. Âm nhạc của họ như những bản nhạc giao hưởng sẽ chẳng bao giờ bị thoái trào. Lời hát của họ vẫn nóng hổi và sống mãi với thời đại ngày nay. Vì vậy, nếu bạn muốn tìm hiểu về progressive rock, hãy mở cuốn sách giáo khoa In the Court of the Crimson King, ở đó sẽ có tất cả những gì tinh túy nhất của thể loại âm nhạc này.

Để tạo nên một tuyệt tác như vậy thì phải hiểu những con người đứng đằng sau phải “điên” đến mức độ nào. Line up ban đầu của King Crimson gồm có 5 thành viên: Robert Fripp, Micheal Giles, Greg Lake, Ian McDonald, và Peter Sinfield. Cho tới nay, trải qua bao nhiêu thay đổi về nhân sự và phong cách âm nhạc, các fan của King Crimson vẫn luôn cho rằng đây là phiên bản hoàn hảo nhất của ban nhạc.

Không thể nói tới King Crimson mà không nhắc tới tay guitar Robert Fripp, một trong những guitar heroes của mọi thời đại. Fripp là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của King Crimson trong suốt 50 năm. Với ông, King Crimson giống một dự án thử nghiệm hơn là một ban nhạc, là nơi quy tụ của những nghệ sỹ có chung quan điểm sáng tác trong một thời điểm nhất định. Cho dù ban nhạc đã thay đổi tới hơn 20 thành viên, Fripp vẫn ở lại và luôn sẵn sàng thay đổi bản thân. Ông không bao giờ từ bỏ thôi thúc được thử nghiệm với âm nhạc, muốn tạo ra những thứ mới mẻ hơn nữa, không bao giờ lặp lại, kể cả với những gì mà chính ban nhạc của ông đã tạo ra.

Nếu như Fripp là chất rock, là giai điệu xuyên suốt của ban nhạc, thì nhịp điệu và tiết tấu của từng bài hát được đảm nhiệm bởi tay trống Giles và tay guitar bass Lake, hai người bạn đã từng có thời gian dài chơi nhạc với Fripp nhưng vẫn chưa thấy thành công. Họ đã cùng nhau tạo nên những tiết tấu biến đổi không ngừng trong album này, phả vào đó hơi hướng nhạc jazz bằng kỹ thuật chơi nhạc điêu luyện của mình. Đặc biệt hơn, Lake còn đảm nhiệm vai trò hát chính cho King Crimson và buộc phải lần đầu chơi bass trong album đầu tiên của ban nhạc sau hàng chục năm chơi đàn guitar.

Để có thể phối trộn được rock, jazz và nhạc cổ điển, ban nhạc cần một cá nhân có hiểu biết và chơi nhiều thể loại nhạc đa dạng. Và thật may mắn khi họ đã kiếm được McDonald, một quái kiệt có thể chơi tới hàng chục nhạc cụ khác nhau. Hình ảnh của McDonald đã gắn liền với cây đàn Mellotron, một phát kiến mới về công nghệ thời bấy giờ. Để có thể tạo được những âm thanh như trong một dàn giao hưởng, McDonald đã áp dụng ngay sáng tạo đó một cách hết sức tài tình. Cây đàn này như một chiếc máy hát thu âm trên băng, trong đó ghi lại âm thanh thực của từng nhạc cụ trong dàn nhạc giao hưởng. Cái hay của cây đàn này so với những cây keyboard hiện nay là âm thanh của nó mang đến cho người nghe một cảm giác hoài cổ, xa xôi, làm thời gian như ngưng đọng hơn. Chính nhờ tài năng của McDonald mà âm nhạc của King Crimson trở nên đột phá và in đậm trong tâm trí người nghe ngay lập tức. Và có thể nói, chính Ian McDonald đã gắn cây đàn Mellotron thành một phần không thể thiếu của dòng nhạc Progressive Rock, định hướng phong cách âm nhạc cho nhiều ban nhạc sau này.

Cuối cùng, chúng ta phải nhắc tới một thành viên hết sức đặc biệt, Peter Sinfield. Ông chỉ đảm nhiệm một vai trò duy nhất: viết lời. Cùng với Lake, Sinfield đã kiến tạo nên một nội dung bao trùm xuyên suốt cả album, với đầy những hình ảnh mê hoặc và kỳ bí. Những câu từ ngữ nghĩa của ông khiến người nghe nhạc phải căng đầu ra để suy nghĩ và chắp nối, nhưng cũng nhẹ nhàng hòa quyện với phần giai điệu mà các thành viên khác tạo ra. Ta sẽ khám phá sâu hơn cái tầm của Sinfield khi phân tích kỹ hơn câu chuyện ẩn mình sau In The Court of the Crimson King trong những phần dưới đây.


21st Century Schizoid Man - tương lai tăm tối của nhân loại

Trong một buổi chiều mùa hạ tại Hype Park, London, năm 1969, công chúng âm nhạc nước Anh lần đầu tiên được nghe một bản nhạc mạnh mẽ đến thế từ một ban nhạc vô danh mở màn cho the Rolling Stones. Đó chính là bản nhạc heavy metal đầu tiên của thế giới được sáng tác bởi King Crimson. Để chỉ vài tháng sau, album heavy metal đầu tiên được trình làng cho khán giả: Black Sabbath của ban nhạc cùng tên và phần còn lại là lịch sử.

21st Century Man, live in Hype Park 1969

Khi giọng hát đầy phẫn nộ của Lake vang lên kết hợp cùng tiếng guitar distortion và tiếng saxophone ngẫu hứng, bầu không khí của Hype Park bỗng chốc trở nên ngột ngạt hơn, đưa người nghe tới một thế giới tương lai ảm đạm hơn rất nhiều so với thế giới quan từ phong trào hippies “Make love not war” trong dòng nhạc rock đang thịnh hành thời bấy giờ. Cũng là sự bất mãn với chiến tranh và chính trị, nhưng góc nhìn của King Crimson là thực tiễn và cực kỳ tiêu cực. Những âm thanh ban đầu của bài hát như những tiếng gào của một con người bỗng chợt nhận ra thế giới mà mình đang sống thối nát đến mức nào, như trong tấm ảnh bìa cho album này vậy. Nên nhớ lúc bấy giờ là những năm cuối thập niên 60, khi mà cuộc chiến tranh Việt Nam đang leo thang và những mâu thuẫn trong xã hội phương tây được đẩy lên tới đỉnh điểm. Bài hát là một lời tiên tri của Peter Sinfield cho nhân loại 100 năm sau (21st Century) và quả thực, khi đang sống ở thế kỷ 21 và đọc lại những gì Sinfield viết, ta có thể thấy chúng vẫn thật thời sự.

Cover art của In the Court of the Crimson King - by Barry Godber
Cat's foot iron claw
Neurosurgeons scream for more
At paranoia's poison door
Twenty first century schizoid man

Blood rack barbed wire
Politicians' funeral pyre
Innocents raped with napalm fire
Twenty first century schizoid man

Death seed blind man's greed
Poets' starving children bleed
Nothing he's got he really needs
Twenty first century schizoid man

Ở thế kỷ 21 của Sinfield, con người đã quá đầy đủ về mặt vật chất “Nothing he’s got he really needs” và công nghệ đã thay thế cho tự nhiên một cách thừa thãi “Cat’s foot iron claw”. Thế nhưng tâm lý của con người lại trở nên bất ổn và điên rồ hơn với những nỗi sợ hãi mới từ chính những gì mình tạo ra, trong khi những bác sỹ thần kinh không hết việc để làm: “Neurosurgeons scream for more”. Những “schizoid man” của tương lai sống vô cảm và tách biệt với xã hội. Họ không muốn ra đường, bởi vì ngoài đó đầy rẫy những tệ nạn và mâu thuẫn xã hội. Xã hội con người quá phức tạp và rối ren khiến họ sợ chính cánh cửa căn nhà của mình: “Paranoia’s poison door”. Quả thật, con người càng thông thái hơn, càng hiểu hơn về xã hội loài người, thì họ lại càng vô cảm và chán ghét với nhân loại. Khoa học có thể giúp con người hiểu biết về thế giới, giúp cuộc sống dễ dàng nhiều lạc thú hơn, nhưng chẳng thế giúp người ta thoát khỏi sự suy sụp của tâm lý. Logic và trí tuệ càng phát triển thì con người lại càng bị đẩy tới bờ vực diệt vong về mặt tư tưởng, như Albert Einstein đã từng viết: “Thật đáng sợ là rõ ràng tiến bộ công nghệ đã vượt xa bản chất của loài người”.

Ở thế kỷ 21 của Sinfield, chiến tranh vẫn sẽ xảy ra và mạng người vô tội vẫn sẽ mất đi như một trò chơi của các chính trị gia “Politicians’ funeral pyre”. Sinfield ở đây đã sử dụng những hình ảnh chết chóc của cuộc chiến tranh Việt Nam lúc bấy giờ để minh họa: “Blood rack barbed wire” “Innocents raped with napalm fire”. Nhưng, ông không chỉ phản đối cuộc chiến vô nghĩa này mà còn nhắc chúng ta rằng những cuộc chiến tương tự sẽ luôn luôn song hành với một nhân loại đang thờ ơ vì bạo lực đã là bản chất của con người, là sự bùng phát không thể tránh khỏi khi con người đã mất hết những gì trong bản thể sơ khai nhất. Trong góc nhìn của King Crimson, nhân loại chắc chắn sẽ tự mình hướng tới diệt vong vì tư lợi cá nhân mù quáng, vì cái trước mắt mà quên mất thế hệ tương lai, vì cái vật chất mà quên mất cái tinh thần. Bài hát kết thúc trong tiếng đếm ngược như một quả bom đang nổ chậm để tượng trưng cho sự chấm dứt của loài người. Liệu loài người sẽ kết thúc ở thế kỷ 21 như Sinfield đã tiên đoán?

I talk to the wind. The wind does not hear.


Ngược lại hoàn toàn với những tăm tối và hỗn loạn của bài hát đầu tiên, những âm thanh nhẹ nhàng của I talk to the wind qua tiếng flute mang phong cách cổ điển của McDonald lại dẫn dắt người nghe vào một miền không gian trìu tượng một cách nhẹ nhàng:





Said the straight man to the late man
Where have you been?
I've been here and I've been there
And I've been in between

I talk to the wind
My words are all carried away
I talk to the wind
The wind does not hear
The wind cannot hear

Bài hát là lời tự sự của “the late man”, người mang theo một tri thức tối thượng nào đó và có vẻ muốn chia sẻ nó cho nhân loại: “I've been here and I've been there”. Thế nhưng, ông ta nói và nói mãi mà không có ai nghe, tưởng như mình đang nói với những cơn gió vậy: “My words are carried away”. Cái câu hỏi và câu trả lời tưởng chừng như vô nghĩa trên lại có thể có nguồn gốc từ phần mở đầu của kinh Job: “Chúa hỏi: “Where have you been? Và quỷ Satan trả lời: "I have been walking here and there, roaming around the earth”.

Có vẻ người ta đã không nghe và bây giờ người ta sẽ không thể nghe thấy “the late man” nữa. Nhiều người cho rằng bài hát mang lại sự thư thái và bình tĩnh đến mức như ru ngủ bởi sự lặp lại của ca từ và tiếng sáo nhẹ nhàng, nhưng với tôi, I talk to the wind tiêu cực hơn rất nhiều. Bài hát đúng là có sự thư giãn và bình tĩnh, nhưng đó là bởi vì “the late man” đã chán ngấy với nhân loại và chẳng thèm quan tâm nữa: “Just upset my mind” và “Just use up my time”, tất cả chỉ còn lại là sự bối rối với ông: “Much confusion, disillusion”. Hình tượng “the straight man” ở đây còn là đại diện cho những con người lý trí của thời đại, để đối nghịch lại với “the late man”, đại diện cho cảm xúc và sự tự do tự tại.

Epitaph - Confusion is my epitaph

The wall on which the prophets wrote
Is cracking at the seams
Upon the instruments of death
The sunlight brightly gleams
When every man is torn apart
With nightmares and with dreams,
Will no one lay the laurel wreath
When silence drowns the screams

Confusion will be my epitaph
As I crawl a cracked and broken path
If we make it we can all sit back
And laugh
But I fear tomorrow I'll be crying,
Yes I fear tomorrow I'll be crying
Yes I fear tomorrow I'll be crying

Between the iron gates of fate,
The seeds of time were sown,
And watered by the deeds of those
Who know and who are known;
Knowledge is a deadly friend
If no one sets the rules
The fate of all mankind I see
Is in the hands of fools





Như những phím đàn piano đen trắng xen lẫn với nhau, bài hát nối tiếp trong album lại tiếp tục sắc màu ảm đạm, mặc dù được chơi trên nền nhạc ballad nhẹ nhàng và sâu lắng với tiếng guitar của Fripp. Khác với những phá cách thông thường, tiếng guitar trong Epitaph mang đậm phong cách nhạc rock từ gốc nhạc blues. Quả thật, nếu Fripp muốn chơi, ông có thể tạo ra được những đoạn nhạc cảm xúc không thua kém gì David Gilmour.

Thoáng nghe qua, chúng ta có thể thấy đây là một bài hát về mối đe dọa của vũ khí hạt nhân, cũng là một chủ đề thời sự nóng thời bấy giờ khi mà hai cường quốc trên thế giới lúc này đang gằm ghè lẫn nhau và đe dọa cuộc sống của cả nhân loại, qua những hình ảnh như: “every man is torn apart”, “the sunlight brightly gleams”, “knowledge is a deadly friend” (công thức vĩ đại E=mc2), và “the fate of all mankind … is in the hands of fools” (chỉ với một nút bấm là nhân loại bị xóa sổ). Những kẻ ngu ngốc ở đây lại là những kẻ có học thức và tư duy, nhưng lại không được kiểm soát bởi nhân tính và đạo đức: “no one sets the rules”.

Nhưng nếu để ý kỹ hơn một chút, thì bài hát này như là một lời tự sự của một người đàn ông đang sống những phút cuối cùng của cuộc đời. Viết gì trên mộ của mình đây để người đời nhớ tới mình? Ông ta lo lắng và sợ hãi cho kết cục của nhân loại sau khi mình chết “I fear tomorrow I’ll be crying”. Ông không tin loài người sẽ vượt qua được bản chất của mình và thế giới sẽ không bị tận diệt. Để rồi cuối cùng ông viết: “Confusion is my epitaph” - tôi không thể hiểu được loài người. Và “confusion” cũng là lời mà “the late man” có nhắc tới trong I talked to the wind.

Epitaph là bài hát kết nối giữa hai mặt của album (băng thu âm thời trước được ghi trên hai mặt): mặt trước đại diện cho thế giới tương lai và thực tại, trong khi mặt sau đại diện cho một thế giới siêu nhiên và cổ đại với hai bài hát Moonchild The court of the Crimson King.

Moonchild - Ước mơ là giả tạo

Moonchild lại nối tiếp pattern của album khi mang một giai điệu hết sức nhẹ nhàng, mang đậm chất dân ca châu Âu (folk song). Không có tiếng trống, cũng không guitar, tất cả âm thanh là tiếng hát và tiếng Mellotron du dương, như một cuốn băng quay chậm đưa người nghe vào một miền cổ tích xa xưa. Ở đó, có một cô bé đang vui đùa trong không gian tĩnh mịch của màn đêm: Moonchild.





Nhưng nếu nhìn kỹ ca từ, thì bài hát muốn viết về “moon” hơn là “child”. Hình ảnh một cô bé hồn nhiên rong chơi trong khu vườn huyền bí chính là hóa thân của mặt trăng. Hãy để ý trăng tan ra trong sóng nước “Dancing in the shallows of a river” hay xuyên qua những tán liễu ven bờ sông “Dreaming in the shadow of the willow”. Kể cả “Gathering the flowers in a garden” cũng có thể được hiểu là năng lượng của ánh trăng tác động tới chu kỳ phát triển của hoa. Mặt trăng chính là một nguồn năng lượng cho sự sống, một phần không thể thiếu của tự nhiên, nhưng nó cũng chỉ là hình ảnh phản chiếu của ánh sáng mặt trời. Ánh trăng hơn nữa còn là đại diện cho nghệ thuật, sự sáng tạo và ước mơ của loài người. Bài hát mô tả một thế giới huyễn tưởng được nuôi sống bởi nguồn năng lượng đó. Không phân biệt, cũng không ép buộc, năng lượng của mặt trăng ban phát cho mọi vật trong thiên nhiên một cách vô tư như cô bé ngây thơ vậy. Cũng cần phải lưu ý rằng hình tượng “Moonchild” trong bài hát luôn đứng ngóng trông đến ngày mai, khi mà ánh sáng thực sự của “The sun child” sẽ tới, như một thực tế không thể tránh khỏi của tự nhiên.

Phần đầu này của bài hát được đặt tên riêng là “The dream”. Đó là tượng trưng cho ước mơ về một thế giới mà tự nhiên, nghệ thuật và sự sáng tạo được làm chủ, được tự do phát triển mà không có sự kìm kẹp của bất kỳ một nền văn minh hay xã hội nào. Nhưng ước mơ thì không có thật và đó là lý do cho những khúc nhạc biến tấu trong phần sau của bài hát được đặt tên là “The Illusion”. Những âm thanh vang lên từ cách chơi ngẫu hứng của ban nhạc như một cách kéo người nghe từ những mong ước viển vông để trở về với thực tại, từ màn đêm thanh vắng tĩnh mịch về phía ánh sáng mặt trời. Những âm thanh tưởng chừng rời rạc và cứng nhắc đó đại diện cho sự suy nghĩ, phân tích có phần nam tính “the sun”, đối ngược hẳn với sự bất thường, mềm mại nữ tính của cảm xúc trong phần đầu của bài hát “the moon”. Sự đối lập này như hai thái cực trong hoạt động nhận thức của não bộ con người vậy: vậy lý trí hay là tình cảm sẽ chiến thắng đây?

The court of the Crimson King - Crimson King, ông là ai?

Trước hết, để hiểu được bài hát này, ta phải trả lời được câu hỏi: Crimson King là ai? Đây là một từ mà dân gian sử dụng để chỉ những bạo chúa gây ra chiến tranh đẫm máu trong triều đại của mình (crimson). Nhưng Crimson King ở đây không phải là một bạo chúa bất kỳ nào, mà được lấy hình tượng thực tế từ vua Frederick II của xứ Sicily (Ý) và Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh. Mất cả cha lẫn mẹ từ rất sớm, vua Frederick II lớn lên trong mâu thuẫn chính trị sâu sắc tại xứ Sicily do Giáo hoàng Innocent III tạm thời nắm quyền. Ông đã phải tự dạy mình học, sống bằng sự cưu mang của những người nghèo ngoài phố cho đến năm 14 tuổi mới chính thức được thừa kế ngai vị vua xứ Sicily. Năm 26 tuổi, ông được trao thân phận Hoàng đế của Đế chế La Mã, với lời tuyên thệ phải chia tách Sicily ra khỏi đế chế La Mã để tránh vây hãm giáo hoàng và phải tiến hành Thập tự chinh để giành lại Jerusalem từ tay đạo Hồi.

Hoàng đế Frederick II của Đế quốc La Mã Thần thánh
Dưới triều đại của mình, kẻ thù coi ông là một bạo chúa khát máu (Crimson King), đưa cỗ máy chiến tranh đi chinh phạt từ Châu Âu tới tận Trung Đông dưới ngọn cờ Thập tự chinh. Ông cũng nhiều lần phê phán đạo thiên chúa và đối đầu quân sự với chính giáo hoàng, đến mức giáo hoàng Gregory IX phải gọi ông là Antichrist (hóa thân của quỷ Satan) và được đưa vào địa ngục tầng thứ 6 của Dante dành cho những kẻ dị giáo. Điều này lại khiến ta nhớ đến tới đoạn hội thoại của “the straight man” và “the late man” hay giữa Chúa và Satan trong I talk to the wind.  

Thế nhưng, có một vị vua Frederick II khác dưới con mắt của những người phụng sự ông. Nói được tới 6 ngôn ngữ khác nhau, kể cả tiếng Ả Rập của kẻ thù, vua Frederick là người bảo trợ vĩ đại cho khoa học và nghệ thuật. Những đóng góp của ông trong lĩnh vực văn học đã góp phần lớn xây dựng ra ngôn ngữ Ý ngày nay. Ông cũng là người yêu thiên nhiên và say mê nghiên cứu khoa học, đến mức đã tự mình viết ra một bộ sách nghiên cứu về đời sống của các động vật. Nhưng sự tò mò cũng khiến ông thực hiện nhiều thí nghiệm trên người mà kết quả thường là cái chết cho vật thí nghiệm. Trong một thời điểm mà con người khao khát tri thức về thế giới, khi mà người ta còn phải nhờ đến sự thông thái của các nhà tiên tri và hiền triết, Frederick đã viết: “Mục đích của chúng ta là phải tìm hiểu mọi thứ từ bản chất của chúng”. Bằng tài năng và sự hiểu biết của mình, ông được sử sách đánh giá là người trị vì sáng suốt và tân tiến, “một kỳ quan của thế giới”. Trong những buổi chầu của mình (court), Frederick cho phép sự tham gia của cả người Ả Rập và Do Thái, để chia sẻ văn hóa của các nền văn minh, tìm hiểu về vũ trụ, vật lý và toán học, từ đó thành lập trường đại học đầu tiên của thế giới vào năm 1224. Phải nhớ rằng trong thời đại của vua Frederick, văn học và nghệ thuật là thứ bị cấm cản, chỉ những gì tuân theo lời dạy của giáo hoàng mới được cho phép truyền bá. Quả là “knowledge is a deadly friend”, khi những thiên tài như Galileo phải chết trong bệnh tật và mù lòa, giam lỏng tại nhà và cô lập với thế giới bên ngoài chỉ vì đã chứng minh được một sự thật: Trái Đất quay quanh Mặt Trời.

Một buổi chầu của vua Frederick II
Frederick II là sự hòa hợp của văn hóa phương Đông và phương Tây, cũng là sự hòa quyện của quá khứ với tương lại. Sự tàn bạo trong chiến tranh của ông được biểu tượng như mặt trời “the sun”, còn con người đam mê nghệ thuật và khám phá khoa học được đại diện bởi mặt trăng “moonchild”. Qua những lời hát của Peter Sinfield, vua Frederick II được tự sự về cuộc đời và thời đại của mình, nhận định về tương lai của loài người qua góc độ của một con người vĩ đại ở thế kỷ 13.





The rusted chains of prison moons
Are shattered by the sun
I walk a road, horizons change
The tournament's begun

The illusion” đã phá vỡ ánh trăng của Moonchild để đưa người nghe tới buổi chầu cuối cùng của vua Frederick II - The court of the crimson king. Bài hát được mở đầu bằng chiến thắng của ánh mặt trời, cũng như cuộc đời vị vua từ đứa bé ngây thơ với đam mê nghệ thuật và khoa học, lớn lên từ nghèo khó dưới sự khống chế của giáo hoàng, trở thành hoàng đế, thành mặt trời rực lửa của đế chế La Mã Thần thánh - Crimson King. Lạ thay, đây chính là những lời mà các giáo hoàng hay nói với các vị vua: “cũng như mặt trăng lấy ánh sáng từ mặt trời … quyền lực của hoàng gia đến từ sự ban phát của giáo xứ”. Rõ ràng, vua Frederick II đã phá vỡ tuyên ngôn này và đưa mình trở thành mặt trời, là nguồn sức mạnh vô song mà không cần phải nhận bất kỳ sự ban phát nào từ giáo hoàng. Đoạn đầu của bài hát dường như muốn nói tới những thay đổi đáng kể từ nhận thức và hành động của ông “horizon change”, từ dưới sự giám sát của giáo hoàng, tới đứng lên nắm quân đội và tuyên chiến với giáo hoàng “The tournament’s begun” (tournament trong thời trung cổ là một trận đấu giữa hai kỵ sỹ).

The purple piper plays his tune,
The choir softly sing;
Three lullabies in an ancient tongue,
For the court of the crimson king

Buổi chầu của vua Frederick II là nơi quy tụ của nhiều nền văn hóa, nhiều đại diện của các tầng lớp khác nhau, từ những nhà tiên tri, nghệ sỹ tới các nhà nghiên cứu khoa học. Cũng vì thế, The court of the Crimson King cũng chứa đầy những màu sắc và âm thanh đa dạng, hòa nhập với nhau qua ca từ của bài hát. Màu sắc đầu tiên của bài hát là màu tím, đại diện cho sự cao quý của hoàng tộc. “The purple piper” khiến người ta nhớ đến hình tượng người thổi sáo trong truyện cổ tích - the pied piper. Truyện kể rằng, người thổi sáo được một làng nọ thuê để tiêu diệt lũ chuột gây dịch bệnh, nhưng sau khi đã xong việc thì anh ta lại bị ăn quỵt. Tức giận vì sự thất hứa và tham lam của ngôi làng, một ngày nọ, khi người lớn trong làng đang đi nhà thờ, anh ta thổi sáo dụ lũ trẻ trong làng và dìm chết chúng dưới bờ sông. Cũng giống như người thổi sáo trong truyện cổ tích, vua Frederick II cũng đã ra trận dưới ngọn cờ Thập tự chinh, để được trả lại là sự kìm kẹp và áp bức, để rồi chính ông lại dẫn quân giao tranh với giáo hoàng. “Three lullabies in an ancient tongue” là muốn nhắc đến một cuốn sách phản giáo được đồn đại là do chính vua Frederick II viết, mang tên “About the three Imposers”. Trong đó, ba kẻ lừa gạt được nhắc tới là Moses, Jesus và Muhammad, ba người sáng lập ra đạo Do Thái, đạo Hồi và đạo Thiên chúa. Rõ ràng tác giả của cuốn sách này không tin vào sự tồn tại của một Đấng cứu thế nào cả.

The keeper of the city keys
Put shutters on the dreams
I wait outside the pilgrim's door
With insufficient schemes

Giấc mơ thống trị đế quốc La mã và loại bỏ vai trò của giáo hoàng của vua Frederick II (the dreams) đã nhiều lần bị phá hoại (shutters) dù ông đã dẫn quân bao vây thành Rome (the city) tới hai lần mà vẫn bất thành vì những mưu kế khôn ngoan của giáo hoàng (the keeper of the city keys). Ông cũng đã ngỏ ý liên minh với một nhóm người hành hương Dominicans (the pilgrim) để cùng chống lại giáo hoàng nhưng không được chấp nhận (insufficient schemes).

The black queen chants
The funeral march,
The cracked brass bells will ring;
To summon back the fire witch
To the court of the crimson king

Hình ảnh “the black queen” là cách nhà vua nhắn nhủ cuộc đời của mình qua câu chuyện của nàng Persephone, vợ của thần địa ngục trong thần thoại Hy Lạp. Truyện kể rằng, nàng khi đang hái hoa cùng với những thần rừng thì bị Hades bắt cóc về làm vợ, dưới sự sắp đặt trước của Zeus với Hades: “Gathering the flowers in a garden”. Nếu chỉ sinh ra là một đứa trẻ bình thường, được sống với niềm đam mê khoa học và nghệ thuật như một Moonchild trong sáng, có lẽ cuộc đời của vua Frederick II đã khác rất nhiều. Thế nhưng, chính vương quyền và tôn giáo đã đưa đẩy ông lên tới quyền lực tối cao và đưa quân đi trinh phạt khắp các bờ cõi “funeral march”. “Brass bells” là công cụ các phù thủy thường dùng để triệu hồi các thần thánh và “the fire witch” được triệu hồi tới được cho là Michael Scot - một nhà khoa học và bề tôi thân cận của vua Frederick II. Scot nhờ những nghiên cứu về hóa học và vật lý của mình, được người đời tương truyền là phù thủy (thời xưa witch không phân biệt là đàn ông hay phụ nữ). Sở dĩ cái chuông đồng bị vỡ “cracked” và Michael Scot được triệu hồi trở lại “summon back” vì ông đã chết trước vua Frederick II. Ở một buổi chầu của vua Frederick, nhà vua luôn đón chào bất kỳ ai có tài năng, dù cho người đời có đồn đại thế nào đi chẳng nữa.

The gardener plants an evergreen
Whilst trampling on a flower
I chase the wind of a prism ship
To taste the sweet and sour

Đoạn nhạc tiếp theo như một phép so sánh cách thức sử dụng quyền lực của giáo hội với vua Frederick II. “The gardener” đại diện cho giáo hội vì muốn trồng một cây thường xanh “an evergreen” - biểu tượng của quyền lực tồn tại vĩnh viễn và tối thượng, đã dẫm đạp lên “a flower” là vẻ đẹp nguyên bản và tính thiện lành của đạo Thiên chúa. Ở thời kỳ của vua Frederick II, có một giáo phái Thiên chúa chân tu khởi xướng bởi Thánh Francis vùng Assisi (Ý) được ghi lại trong sách “The little flower”. Đó là những người buông bỏ tất cả những gì mình sở hữu để một lòng theo Chúa giúp đỡ những người nghèo. Vua Frederick cho rằng giáo hội đã quá ham mê đến quyền lực và thống trị mà quên đi gốc gác của mình là chính từ những người nghèo khổ mà ra. Còn vua Frederick thì sao, với quyền lực của mình, ông thỏa sức theo đuổi những đam mê, tìm hiểu về tự nhiên từ bản chất của chúng “taste the sweet and sour”. “Prism” là lăng kính, vật mà khi ánh sáng thông thường đi qua sẽ được phân tách, tán xạ ra nhiều mảng màu khác nhau, cũng như vị vua không ngừng khát khao tìm hiểu về bản chất của thế giới và nhân loại.

The pattern juggler lifts his hand;
The orchestra begin
As slowly turns the grinding wheel
In the court of the crimson king

Cuộc đời con người dù có vĩ đại đến đâu thì cũng phải có lúc kết thúc như mặt trời tỏa sáng đến mấy cũng có lúc phải khuất bóng ở chân núi phía xa. Những câu hát trên kể lại những năm tháng cuối đời của vua Frederick II. Những cuộc chiến tranh diễn ra liên miên với các giáo hoàng mà mãi không có kết cục đã làm cho ông mệt mỏi và chán nản. Ông đã phải đánh đổi biết bao nhiêu xương máu và của cải mà cuối cùng vẫn bị dồn đến phía chân tường, thậm chí đến chính những đứa con trai của mình cũng thất trận và chịu án tử hình công khai. Vua Frederick cảm thấy mình như đồ vật bị số phận tung hứng “the pattern juggler”. Quả thật, không ai có thể chạy trốn được những vòng quay của số phận nghiệt ngã“the grinding wheel”. Số phận đã cho ông tất cả và rồi cũng lấy hết mọi thứ khi ông sắp qua đời.

On soft gray mornings widows cry
The wise men share a joke;
I run to grasp divining signs
To satisfy the hoax

Những ngày cuối cùng của vua Frederick II là những chuỗi ngày mệt mỏi trên giường bệnh “gray mornings” vì đau ốm và cũng là xót xa khi nghe tin quân đội của mình liên tục bại trận “widows cry”. Nhà vua đã bị hội đồng giáo mục Lyons buộc tội dị giáo do: (1) phủ nhận quyền lực của giáo hoàng “keeper of the city keys”; (2) báng bổ khi cho rằng Jesus Christ, Moses và Muhammad “the wise men” đã đánh lừa cả nhân loại khi tuyên bố Chúa được sinh ra từ một trinh nữ “the hoax”; và (3) tuyên bố rằng không thể tin bất kỳ điều gì “divining signs” mà giáo hội nói nếu nó không thể chứng minh được từ thực tế. Đến cuối đời, vua Frederick II cuối cùng đã bị ép buộc phải tuân theo lý luận của giáo hội bằng vũ lực “satisfy the hoax”.

The yellow jester does not play
But gentle pulls the strings
And smiles as the puppets dance
In the court of the crimson king

Vua Frederick II qua đời trên giường bệnh vào năm 1250. Đúng như những lời tiên tri về cái chết của ông, ông sẽ qua đời trước một cánh cổng sắt “between the iron gates of fate “. Giáo hoàng khi đó vui mừng tuyên bố kẻ thù của giáo hội đã được loại bỏ, thế giới đã bớt đi một bạo chúa và một đứa con của quỷ Satan. Số phận thật như một trò đùa “the yellow jester”, đến cuối cùng giáo hoàng cũng chẳng cần phải làm gì cả “does not play”, mà thời gian cũng tự đánh bại Crimson King. Vậy là giờ đây còn thế lực nào dám đứng lên đối chọi với quyền lực của giáo hội “no one sets the rules”. Kể từ sau khi vua Frederick II qua đời thì dòng tộc của ông cũng chấm dứt, cùng với đế chế La Mã cũng suy yếu dần đến lụn bại – “The fate of all mankind I see is in the hands of fools”.

Du hành ngược thời gian với Crimson King

Khi chúng ta đã hiểu Crimson King là ai, chúng ta có thể quay ngược album và nghe lại từ dưới lên, những câu hát tưởng như vô nghĩa và không có liên hệ gì với nhau bỗng chốc dễ hiểu hơn rất nhiếu. Album “In the Court of the Crimson King” được viết ngược chiều thời gian, từ tương lai của chúng ta hay của ban nhạc King Crimson (21st century man) ở thế kỷ 21, tới thời điểm hiện tại (I talk to the wind Epitaph), trở về tới quá khứ của thời Trung cổ (Moonchild The court of the crimson king). Ngoại trừ bài hát đầu tiên, tất cả các bài hát còn lại đều là góc nhìn thứ nhất, là lời kể của chính vua Frederick II qua những câu hát của Peter Sinfield. Cái chết của nhà vua chỉ là cái chết vật lý của một nhân vật lịch sử. Vua Frederick II chết nhưng linh hồn của ông vẫn còn tiếp tục tồn tại qua lời hát của Sinfield, bất chấp mọi biến đổi của thời đại. Trong Moonchild, đó là khát khao cháy bỏng của ông với nghệ thuật và khoa học “The dream” khi đang vật lộn với bệnh tật. Đó là khi linh hồn của ông trở về với bản thể hồn nhiên và tinh túy nhất.

Epitaph là bài hát ở chính giữa album. Nó như một tấm gương phản chiếu hai thái cực, chia tách cả album ra làm hai phần với hai bài hát đầu tiên về thế giới tương lai và thực tại, còn hai bài phía sau nằm sâu trong miền quá khứ và siêu thực. Epitaph còn có thể coi là hình ảnh phản chiếu ngược của album khi nó đi từ chiều quá khứ “The prophet wrote”, tới hiện tại “I crawl a cracked and broken path”, và tương lai “Tomorrow I’ll be crying”. Nếu qua góc nhìn của vua Frederick II, thì Epitaph chính là lúc linh hồn của nhà vua thoát ra khỏi hầm mộ trong quá khứ để đến với tương lai xã hội loài người, vượt qua mọi rào cản của thời gian. Linh hồn ấy vẫn đang dằn vặt với quá khứ của mình, cái thời mà ông là một hoàng đế vĩ đại “sunlight” mang cỗ máy chiến tranh đi trinh phạt “the instrument of death”. Linh hồn ấy cũng dằn vặt giữa những giấc mơ - Moonchild và ác mộng - The court of the crimson king. Quả thực, không phải ngẫu nhiên khi đoạn đầu của bài hát được lặp lại sau tiếng nổ lớn đại diện cho sự chuyển mình và tái sinh của nhân vật chính. Đó là sự lặp lại của quá khứ, về những cuộc tàn sát đẫm máu trong lịch sử rồi sẽ còn xuất hiện trong tương lai của loài người.

Đến I talk to the wind, linh hồn của vua Frederick II đã đạt vào trạng thái siêu thực. Trải qua hàng trăm năm lịch sử để tới với thời hiện đại, ông đã chứng kiến bản chất của nhân loại vẫn không hề thay đổi. Dù xã hội loài người ngày càng tiến bộ, nhưng vẫn chẳng có ai “set the rules”, những thế lực trên thế giới vẫn cạnh tranh nhau xem ai phát triển ra nhiều vũ khí tân tiến nhất để đe dọa lẫn nhau. Những gì vua Frederick II đã nói cũng như những cơn gió bay thoảng qua mà nhân loại không hề lắng nghe. Để đến cuối cùng là một tương lai tăm tối chờ đón loài người ở 21st Century Man. Có lẽ mỗi con người chúng ta ở thế kỷ 21 đều được "thừa kế" một chút gì đó trong tâm tưởng từ nhà vua Federick II, cũng là thứ "vô thức tập thể" mà nhà Tâm lý học Carl Jung đã phát hiện ra.

Vậy là album In the Court of the Crimson King là cách mà ban nhạc tưởng nhớ đến một trí tuệ vĩ đại ở thế kỷ 13, trí tuệ của một vị hoàng đế với tầm nhìn vượt thời đại. Và chính cái cách sắp xếp bài hát trong album này cũng là một cách mà ban nhạc thách thức và đi ngược lại với thời gian và thời đại. In the court of the Crimson King là album đầu tiên của King Crimson thể hiện cái khát khao khẳng định  nghệ thuật cháy bỏng của ban nhạc. Vậy thì cái tên King Crimson, lấy cảm hứng từ một nhân vật vĩ đại như thế, cũng khá xứng đáng với những kẻ muốn thách thức thời đại.