Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020

Stairway to Heaven - Robert Plant viết cái đéo gì vậy?

 

Stairway to Heaven - Robert Plant viết cái đéo gì vậy?

 

Ah Led Zeppelin. Cái tên đã quá đỗi quen thuộc với những người nghe Rock. Thế nhưng tên tuổi của bài hát Stairway to Heaven lại còn có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn thế nữa. Không ít người chỉ biết mỗi bài hát này trong set list hàng trăm bài hát từ sự nghiệp lẫy lừng của ban nhạc và thậm chí cũng có người chỉ biết đến Stairway to Heaven mà lại chẳng hề biết gì về Led Zeppelin. Với những người yêu Rock, có lẽ chúng ta đã “phải” nghe đi nghe lại bài hát này tới cả nghìn lần, nhưng đã bao giờ bạn thử dừng lại và ngẫm nghĩ xem họ đang viết về cái quái gì chưa?

Stairway to Heaven - Led Zeppelin

Quả là những giai điệu của bài hát này có phần lôi cuốn đến mức kì dị, khiến chúng ta chăm chú thưởng thức âm nhạc đến nỗi để những lời hát cứ thế trôi tuột qua. Giai điệu ấy như một lớp đồng thau phủ trên chiếc hòm châu báu, khiến cho những kẻ đào mộ quên mất việc mình phải mở hòm và cuỗm lấy đống vàng phía trong. Vậy có lẽ ở bài viết này, chúng ta hãy cùng thử mở nó ra xem bên trong thực sự là kho báu đáng giá hay đó chỉ là một cái hòm trống rỗng mà thôi.

Lời phủ nhận của Robert Plant

Có lẽ để tìm ra câu trả lời cho một thứ gì bí ẩn, điều đầu tiên xuất hiện trong suy nghĩ của mọi người là hãy đi hỏi chính cái người đã tạo ra nó. Thế nhưng, những người có chung suy nghĩ ấy đã hỏi Robert Plant - người đã chắp bút viết nên lời bài hát này - không biết bao nhiêu lần trong suốt cả nửa thế kỷ tồn tại của nó, nhưng chẳng bao giờ họ nhận được câu trả lời xứng đáng cuối cùng. Robert có lần đã khẳng định rằng chính ông cũng không biết: “tùy mỗi ngày mà tôi lại thấy một ý nghĩa mới của bài hát trong khi tôi là người viết nó đấy”. Cũng có lúc Jimmy Page - tay lead guitar của ban nhạc hồi tưởng về lúc mà Robert Plant viết ra nhạc phẩm này: “Robert gần như viết trôi chảy trong một buổi tối mà thôi”. Tưởng chừng như có một vị thánh thần nào đó đã ban phát cho nhân loại những ca từ màu nhiệm ấy vậy.  

Cứ thế, thời gian trôi đi, Robert Plant cũng đã phát chán với những câu hỏi về ý nghĩa của bài hát và cũng phát chán khi phải hát nó ở mỗi buổi concert có mặt ông. Người ta đành phải tạm hài lòng rằng có khi nó vô nghĩa thật đấy, có khi Robert chỉ coi lời hát như một thứ nhạc cụ, chẳng qua là ông cố gắng “điền vào chỗ trống” để bài hát vừa huyền bí lại vừa cuốn hút một cách giả tạo mà thôi. Cũng có một quan điểm nữa đó là Chúa đã cầm tay ông viết nên những ca từ ấy trong những cơn say trong ma túy, rượu mạnh và tình dục. Quái dị hơn, có những con người tò mò quay băng ngược băng bài hát và bỗng chợt tìm ra trong mớ âm thanh hỗn độn ấy những câu từ cổ xúy và tôn thờ ác quỷ Satan.

Với cá nhân tôi, nếu có cùng quan điểm như trên thì tôi cũng chẳng viết bài này làm gì. Tất cả chúng đều có phần quá xem nhẹ trình độ của Led Zeppelin và cái tầm của Robert Plant rồi. Có rất nhiều lý do khiến tôi tin rằng có điều gì đó được Robert gửi gắm trong những lời bài hát ấy. Và để hiểu về những lý do đó, chúng ta bắt buộc phải hiểu đôi chút về ban nhạc Led Zeppelin và Led Zeppelin IV - album thứ tư không được đặt tên của họ.

Led Zeppelin

Khi guitarist Jimmy Page đi tìm kiếm những thành viên mới để thực hiện ý tưởng về một Super Group, nơi hội tụ những gì tinh túy nhất từ các ban nhạc rock nước Anh để thay thế cho ban nhạc cũ vừa mới tan rã, ông đã là một nhạc công rất thành danh. Thế nhưng, ý tưởng ấy của ông bị những người khác cho là điên rồ: Làm sao có thể nhồi nhét những cái tôi quá lớn cùng vào trong một ban nhạc và kỳ vọng cái tổng hòa đó sẽ có thể tốt hơn từng thành viên gộp lại? Làm sao có thể kết hợp được những phong cách âm nhạc khác nhau mà không tạo thành một mớ âm thanh hỗn loạn? Trong quá trình đi tìm kiếm những mảnh ghép của ban nhạc trong mơ của mình, Jimmy Page đã bị nhiều nghệ sĩ khác cười nhạo và đặt cho ban nhạc của ông cái tên Lead Zeppellin, có nghĩa là một chiếc khinh khí cầu làm bằng chì, chẳng bao giờ có thể cất cánh lên bầu trời rộng lớn kia được.

Vậy nhưng, định mệnh đã an bài với Jimmy Page, khi ông được giới thiệu về một chàng trai trẻ vô danh đến từ thị trấn West Bromwich: Robert Plant. Chàng trai ấy mới chỉ đôi mươi nhưng đã dứt áo bỏ nhà ra đi để theo đuổi niềm khao khát với thứ nhạc Blues đầy ngẫu hứng từ xứ sở cờ hoa xa xôi. Khi lần đầu nghe Robert Plant cất lên những nốt nhạc đầu tiên, Jimmy Page bất chợt nhận ra rằng cuối cùng ông đã tìm ra một frontman thực sự khác biệt, một giọng hát tông cao trời phú sinh ra để cho Rock’n’Roll. Bên cạnh giọng hát tuyệt vời, Robert còn là một ngòi bút có hạng, xuất phát từ niềm say mê với thơ ca cổ truyền nước Anh và những điều huyền bí của ma thuật.

Chiếc lông vũ của Ma’at - nữ thần Công lý của Ai Cập, đại diện cho văn học và sự sáng tạo

Robert Plant sau đó đã tiến dẫn người bạn thân của mình cho Jimmy Page: tay trống John Bonham, và rồi kể từ đó chiếc khinh khí cầu ấy đã có cái khung để có thể cất cánh. Cái chất nhạc của Led Zeppelin là sự mạnh bạo đầy năng lượng trên nền tảng nhịp dồn dập, cũng chính là cái mà chỉ có John Bonham mới tạo ra được nhờ tốc độ chơi trống đặc biệt của mình. Có thể nói ông chính là trụ đỡ, là chất keo gắn kết cần thiết để những thành viên khác của ban nhạc bấu víu vào mà sáng tạo. Nếu không có John Bonham, lấy đâu ra chỗ cho những phút solo ngẫu hứng của Jimmy Page? Cũng lấy đâu ra chỗ cho giọng hát của Robert Plant được thỏa sức biến tấu trong mỗi buổi hát live? Nếu để ý một chút, ta sẽ thấy ẩn bên trong phong cách chơi của Led Zeppelin là kỹ thuật điêu luyện trong điều chỉnh nhịp độ và tiết tấu của bài hát để tạo ra được cái cảm giác hồi hộp và gấp gáp rất riêng. Một bài hát của Led Zeppelin có thể đảo nhịp tới vài lần. Đôi khi, họ có những bài hát mà âm thanh của guitar và bass chơi theo một nhịp còn trống lại đánh một nhịp khác, điển như trong hai tác phẩm Kashmir Black Dog. Vì sao họ đánh ngẫu hứng được như thế? Bởi vì họ có thể. Bởi vì ngồi sau bộ trống đồ sộ đó là John Bonham. Nếu không có ông, với khả năng giữ nhịp vững chắc như đá tảng, chắc chắn những giai điệu đó cũng sẽ không thể thành hình mà sẽ chỉ là một đống hỗn loạn mà thôi.

Biểu tượng Trinity: Cha, Mẹ và Con, nguyên thủy của văn hóa Pagan cổ đại, đại diện cho cho hạt nhân cấu thành xã hội loài người

Mảnh ghép cuối cùng của Led Zeppelin, tay bass and keyboard John Paul Jones, lại tự mình tìm đến với ban nhạc sau khi nghe tin Jimmy Page đang thành lập một Avengers của nhạc Rock. Nếu so với những thành viên khác trong ban nhạc, JPJ không quá đặc biệt và nổi bật trên sân khấu, với tính cách trầm lặng và có gì đó xa cách. Không phải là nhạc công giỏi nhất, nhưng bù lại khả năng chơi nhạc đa dạng và phối hợp ăn ý của ông là điều cần thiết cho Led Zeppelin. Bên cạnh vai trò kết hợp với John Bonham trong việc xây dựng kết cấu nhịp điệu cho bài hát, JPJ cũng phải hòa âm với tiếng guitar đầy biến ảo của Jimmy Page. Nếu không có sự chắc chắn về nhạc lý và nhạy cảm với giai điệu, chắc chắn JPJ sẽ không thể nào đứng giữa hai nghệ sỹ hàng đầu ấy, nhất là khi mỗi người đó lại cố ý chơi theo một nhịp điệu khác nhau. Led Zeppelin cũng cần JPJ ở khả năng hiểu biết về nhiều loại nhạc cụ, cho phép ban nhạc có thể mở rộng phạm vi âm nhạc của mình từ Rock tới Blues, rồi tới nhạc Folk, pha trộn đâu đó những âm hưởng của âm nhạc phương Đông, nhạc Jazz, và cả nhạc giao hưởng nữa.

Phép bùa chú cao cấp của phù thủy, đại diện cho sự vững vàng và tự tin vào năng lực của bản thân

Và cuối cùng, một khi nhắc tới Led Zeppelin, thì không thể không nói tới lead guitarist của ban nhạc: Jimmy Page. Có lẽ cũng không cần nói nhiều về ông vì để trở thành trưởng nhóm của một ban nhạc toàn những cá nhân kiệt xuất thì đủ hiểu tài năng của ông đạt đến mức nào. Kỹ thuật chơi nhạc của ông, theo tôi, chưa chắc đã phải là nhất thế giới, nhưng cái cách mà ông chơi, luôn luôn với 100% nhiệt huyết và tình yêu với âm nhạc đã mê hoặc hàng triệu khán giả và là nguồn cảm hứng chơi nhạc cho không biết bao nhiêu nghệ sỹ guitar khác sau này. Jimmy Page không chỉ chơi hay mà ông còn là người kiến tạo ra những bản nhạc đủ rộng rãi để ông có thể thỏa sức phô diễn kỹ thuật của mình. Những điệu riff hay câu solo của Jimmy Page, thoạt nghe thì tưởng là bộc phát trong những phút phiêu của người nghệ sỹ, nhưng quả thực đó là cả một công trình đồ sộ được ông tính toán kỹ lưỡng, với hàng giờ mỗi ngày bỏ ra để điều chỉnh âm thanh từng chút một trong một tổng thể hoàn chỉnh. Những gì ta nghe trong các album của Led Zeppelin hay các biểu trình diễn live chính là thành quả của ngần ấy công sức của Jimmy Page. Cũng như Robert Plant, Jimmy Page là một nghệ sĩ với niềm đam mê với những điều kỳ bí và luôn muốn đưa chúng vào âm nhạc của mình. Ông là một tín đồ của hội tà giáo (occult) Thelema - nơi tôn thờ tình yêu bản thân và sự tự do hoàn toàn của cá nhân với tư tưởng xuyên suốt: mỗi con người sinh ra đều có một mục đích, nếu mục đích đó không làm hại tới ai, thì hãy theo đuổi nó đi. Với một Rock Star như Jimmy Page, với đầy đủ quyền lực, danh vọng và của cải để làm những gì mình muốn, cũng chẳng lạ gì nếu ông theo đuổi những thứ nhân sinh quan ngập tràn tự do như vậy.

Không rõ ý nghĩa, có thể là biểu tượng Saturn - vị vua của các Titan và cha đẻ của các vị thần

Với một lineup khớp nối với nhau hoàn chỉnh, Led Zeppelin giờ đã đủ nhiên liệu để cất cánh bay cao trong bầu trời âm nhạc. Thành công đến với họ rất nhanh chóng nhờ chất lượng âm nhạc đột phá, với tốc độ chơi nhanh và mãnh liệt. Cũng như điều Judas Priest sau này đã làm với Hard Rock và Heavy Metal, Led Zeppelin là ban nhạc tiên phong trong việc phối trộn hoàn hảo chất nhạc Blues biến ảo vốn đã rất quen tai với công chúng Mỹ với dòng nhạc Rock có phần thô ráp và đơn giản hóa. Trong hai album đầu tiên của ban nhạc, Led Zeppelin đã triệt để khai thác phong cách này và nhanh chóng gặt hái được những thành công rực rỡ. Nhưng, chúng cũng đi kèm với không ít những chỉ trích. Nên nhớ lúc ấy Led Zeppelin chưa được nhìn nhận là những tượng đài nhạc Rock như trong khoảng vài chục năm gần đây. Trong con mắt của giới phê bình nghệ thuật và phần lớn công chúng nghe nhạc thời đó, họ chỉ là một lũ hippy ăn không ngồi rồi, chơi nhạc ồn ào, Blues không ra Blues mà Rock cũng chẳng ra Rock. Với quá nhiều tiền bạc, những thành viên trong ban nhạc lại càng làm người ta ganh ghét khi lao vào lối sống xa hoa với những buổi tiệc tùng trác táng tới không tưởng. Căng thẳng càng đẩy lên cao khi Led Zeppelin muốn thử sức với album thứ ba mang âm hưởng Folk và phải nhận biết bao nhiêu “gạch đá” từ giới phê bình nghệ thuật. Những chỉ trích ấy khiến Jimmy Page đã chán ngán đến nỗi từ chối các cuộc phỏng vấn trong suốt cả năm trời. Với ông, dù phong cách âm nhạc có phần chuyển biến, Led Zeppelin vẫn vậy, vẫn là từng đấy những tài năng đặc biệt. Những bản thu của album thứ ba như Immigration Song, Celebration Day, hay Since I’ve Been Loving You đều là những bài hát có chất lượng nghệ thuật cao, được viết từ những phút giây cảm hứng dồi dào và tình yêu với thiên nhiên rộng lớn của nước Anh khi Robert Plant và Jimmy Page rủ nhau lẩn trốn khỏi lối sống ồn ào để tập trung vào sáng tác âm nhạc ở một căn nhà nhỏ nơi xứ Wales xa xôi hẻo lánh. Rõ ràng, những chỉ trích nhắm vào khả năng đa dạng hóa và thích nghi với nhiều thể loại âm nhạc đã động vào cái tôi nghệ thuật của Led Zeppelin.

Led Zeppelin IV hay cái tôi nghệ thuật của Led Zeppelin

Tức mình trước những chỉ trích của dư luận rằng Led Zeppelin bán album bằng scandal nổi loạn và thứ âm nhạc ồn ào vô nghĩa, Jimmy Page đã nghĩ ra một quyết định táo bạo với album thứ tư: họ phát hành album mà không hề có tên ban nhạc và cũng chẳng có tiêu đề gì cả. Thay vào đó, mỗi thành viên ban nhạc lựa chọn cho mình một biểu tượng làm đại diện. Đây là một bước đi được coi là điên rồ của Jimmy Page về mặt thương mại, khi Led Zeppelin đã tự bỏ đi cái thương hiệu mang tính toàn cầu, điều có thể khiến người ta mua album mà không cần nghe thử, chỉ để khẳng định cái tôi của mình. Album thứ tư như lời khẳng định đanh thép rằng âm nhạc của chúng tôi là thứ nghệ thuật đích thực, là tâm sức và thành quả sáng tác của những cá nhân kiệt xuất nhất thế giới, và album của chúng tôi có thể bán được kể cả khi nó được bọc bằng bao tải đựng rác đi chăng nữa.

Với việc dồn hết tâm sức vào nghệ thuật và để các bài hát trong album nói lên tất cả, vô tình, Jimmy Page đã tạo ra một bước marketing siêu việt. Phủ lên album sự kì bí và cái tôi ngạo nghễ của từng thành viên trong ban nhạc, Led Zeppelin đã động vào được tới sự tò mò của người nghe. Họ truyền tai nhau về một album bí ẩn của Led Zeppelin, về những bài hát đầy mê hoặc với những phong cách đột phá khác nhau dưới sự pha trộn hài hòa của Rock, Blues và Folk. Không cần tới quảng cáo, cũng chẳng cần tới thương hiệu, Led Zeppelin IV cứ thế đã trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại. Đây không chỉ là thành công về mặt thương mại mà nó còn đánh dấu bước chuyển mình hoàn hảo của ban nhạc trong con mắt của công chúng và giới phê bình nghệ thuật. Những gã ồn ào chơi nhạc Blues Rock đầy tai tiếng bỗng bất chợt trở thành những nghệ sỹ đỉnh cao với cái tầm nhìn vượt mọi thời đại. Ở đó, vẫn có những bài hát mang âm hưởng Blues Rock đã làm nên thương hiệu của ban nhạc được trau chuốt kỹ lưỡng hơn nữa về âm nhạc và thu âm như Black Dog, Rock and Roll, hay When the Levee Breaks. Thế nhưng, ta cũng thấy âm hưởng nhạc Folk của album thứ ba được tái hiện và hoàn thiện hơn hẳn với các nhạc phẩm như The Battle of Evermore và đặc biệt nhất là Stairway to Heaven.

Chủ đề của album này cũng có sự phát triển so với những album trước đây, thay vì chỉ là viết về tình yêu, tình dục, hay ma túy như những album trước, Robert Plant đã gửi gắm thêm những yếu tố màu nhiệm từ những trang sử thi thất truyền của Châu Âu, với cảm hứng từ các tác phẩm của J.R.R. Tolkien và Lewis Spence. Đọc các tác phẩm của hai nhà văn và nhà nghiên cứu này, ta mới thấy có một điểm đó là Robert Plant không hề khai thác các nhân vật và cốt truyện theo cái cách sao chép triệt để, mà chỉ mượn hình ảnh rồi sử dụng trí tưởng tượng của chính mình để chuyển biến chúng thành những câu truyện rất riêng. Ở đâu đó trong The Battle of Evermore, ta thấy hình ảnh của trận chiến Minas Tirith giữa hai phe thiện ác với những the Dark Lord, ring wraiths, hay Queen of Light. Thế nhưng, ở đó cũng xuất hiện hòn đảo Avalon gắn liền với vị vua Arthur huyền thoại trong sử thi Anh Quốc. Hay như bài hát Misty Mountain Hop dù có cái tên về một ngọn núi trong The Hobbit, thế nhưng nơi đó chỉ được Robert Plant sử dụng để hoán dụ cho những cuộc phiêu lưu trong cơn say ma túy của mình mà thôi. Nhiều người sau khi tìm ra những nhân vật và bối cảnh quen thuộc trong The Lord of the Rings hay The Hobbit, đã cố gắng gán ghép hoàn toàn câu chuyện mà Tolkien đã kể vào với những dòng lyrics của Robert. Tất cả các nỗ lực ấy đều sẽ dẫn tới những suy diễn lủng củng thiếu logic. Vậy nhưng, nếu chúng ta thử phân tích theo hướng Robert chỉ vay mượn ý tưởng chung đó, rồi kết hợp chúng với niềm đam mê với những điều bí ẩn của nền văn minh Pagan, và đặt giữa bối cảnh phong trào counter culture đang hiện hữu, ta sẽ thấy một hướng suy nghĩ mới về những bài hát đã quá nổi tiếng này.

 

The Magic Arts in Celtic Britain - Lewis Spence (1945)

Paganism - văn hóa man di hay cội nguồn dân tộc

Paganism thực ra cũng chẳng có tên, vô tình hay cố ý, cũng giống hết như album thứ tư của Led Zeppelin vậy. Đó có thể gọi là một loại tôn giáo, nhưng sẽ đúng hơn thì nên coi nó là một hệ tư tưởng, lối sống, và nét văn hóa cổ truyền của Châu Âu. Vào lúc bấy giờ, đại bộ phận Châu Âu vẫn còn là xứ sở đầy bí ẩn sống hòa mình trong những cánh rừng bạt ngàn. Ở đó, con người sống theo những bộ tộc được gọi là người Celts, hay dưới con mắt của Đế chế La Mã: một lũ man di mọi rợ. Dưới ngọn cờ nhuốm máu của Đế quốc La Mã Thần thánh, dần dà những cánh rừng rộng lớn và các tộc người Celts dần dần bị đẩy về phía Tây và phải lẩn trốn tới các hòn đảo ở Phương Bắc xa xôi. Paganism cũng theo đó bị ép buộc chuyển hóa dần sang Thiên Chúa giáo dưới sự đàn áp và những cuộc thảm sát của Đế quốc. Đến khi những cuộc xâm lăng cuối cùng của Đế chế La Mã tới những hòn đảo xa xôi ở Anh Quốc, Paganism gần như đã bị xóa sổ hoàn toàn và chỉ còn là những lớp sóng ngầm, ẩn đâu đó trong những câu truyện cổ tích truyền tai vụn vặt trong dân gian ngày nay. Tất cả những gì nguyên bản nhất từ cái thuở hoang sơ của xã hội loài người, với lịch sử cả chục ngàn năm, dần phải đi vào quên lãng với những tư tưởng tôn giáo mới ra đời và sau này là tiến bộ vượt bậc của khoa học. 

 

The Druids / The conversion of the Britons to Christianity - S.F. Ravenet (1752)

Thuở xưa, người Celts cũng chẳng khác gì những người Hobbits trong truyện của J.R.R. Tolkien cả. Họ là những người sống hòa đồng với thiên nhiên hùng vĩ, với tình yêu bao la với nghệ thuật. Họ đúng là những kẻ nhà quê chẳng màng tới chính sự như cái tên Pagan mỉa mai do chính người La Mã đặt cho họ. Ta có thể thấy trong nét văn hóa ấy những điều rất gần gũi, tưởng chừng như nó có chung xuất phát điểm với tất cả chúng ta và dường như mọi nền văn hóa trên toàn thế giới đều bắt nguồn từ một cái gốc nào đó. Nào là những phong tục thờ cúng, hiến tế cho các vị thần, những nhân vật trong trí tưởng tượng của con người để lý giải cho thiên nhiên hùng vĩ và khắc nghiệt. Những vị thần ấy xuất phát từ cỏ cây, muông thú, từ thời tiết tới các vì sao trên trời, chứ không phải là những thế lực siêu nhiên có quyền năng tối thượng như trong Thiên Chúa giáo. Nào là những niềm tin vào cõi âm, vào những quy luật nhân quả, vào linh hồn của con người và trời đất. Nào là những món bùa ngải, thần chú, biệt dược từ tự nhiên để con người đương đầu với cuộc sống khắc nghiệt, mà sau này người ta gọi nó là ma thuật. Và ở đó cũng không thiếu những truyền thuyết mang đậm tính sử thi để lý giải sự tồn tại của nhận thức và răn dạy những thế hệ theo sau phải biết đấu tranh nhưng cũng yêu quý lấy tự nhiên, phải cư xử với nhau thế nào để cùng nhau tồn tại và phát triển. Trong nét văn hóa ấy, những druid là những người am hiểu nhất trong cộng đồng, là sứ giả của con người với thế giới siêu nhiên, cũng tương tự như thầy cúng trong văn hóa Châu Á hay các Shaman trong các bộ lạc Châu Phi và Châu Mỹ bản địa vậy. Họ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc lưu giữ những tri thức của con người trong cái thời đại mà chữ viết cũng còn chưa tồn tại.

Vậy điều gì đã khiến Robert Plant say đắm với Paganism đến thế?

Thứ nhất, đó chính là lối sống và nhân sinh quan gắn chặt với tự nhiên của nét văn hóa này. Nên nhớ Led Zeppelin chính là một trong những mũi nhọn tiên phong của phong trào counter culture lúc bấy giờ. Còn gì hippy hơn khi người nghệ sỹ hướng mình đến những tư tưởng trân trọng thiên nhiên của một nền văn hóa xưa cũ, khi con người sống một cuộc sống giản đơn và thư thả, không vấn vương đến sự đời? Nếu nhìn vào chủ đề của những album trước đây của ban nhạc, ta sẽ thấy chỉ có tình yêu và tình dục, thì sự đa dạng về chủ đề của album này đã cho ta thấy ban nhạc dần dà đã hướng đến tư tưởng của những người Celts xưa qua các chủ đề rất đỗi đời thường như tình bạn, biển cả, những con động vật, những hoài niệm quá khứ, hay đơn giản chỉ là một chặng đường đi dạo. Những điều tưởng như quá gần gũi tới mức tầm thường đó lại chính là thứ mà Paganism tôn sùng: cuộc sống tự nhiên từ những điều đơn giản nhất.

Điểm thứ hai đó là ý muốn cho người nghe tìm hiểu về nét văn hóa xưa cũ ấy như những nỗ lực nhỏ nhỏi của Robert Plant muốn níu kéo lại một chút gì đó của cái bản thể của dân tộc mình. Đây cũng chính là điểm giao thoa giữa hai người nghệ sỹ tưởng chừng như chẳng có mối liên hệ nào với nhau là Robert Plant và J.R.R. Tolkien. Chẳng có gì khác ngoài Paganism chính là động lực cho J.R.R. Tolkien chắp những ngòi bút đầu tiên của The Lord of the Rings. Ông ganh tỵ với những câu truyện cổ của Grimm hay Andersen của các nước Châu Âu khác đã quá phổ biến, trong khi quê hương Anh Quốc đầy màu nhiệm của mình lại chẳng có gì cả. Chăm chỉ nhặt nhạnh những mẩu truyện xa xưa phối trộn với trí tưởng tượng siêu việt của mình, J.R.R. Tolkien đã viết nên một câu truyện cổ tích đương đại cho riêng quê hương ông, để nhân loại nhận ra rằng nền văn hóa Anh vẫn mãi trường tồn. Robert Plant của chúng ta cũng có cùng tư tưởng như vậy, nhưng vì ông là một nghệ sỹ nhạc Rock, cái cách làm của ông cũng phải có đôi chút khác biệt. Thay vì viết nên cả những trang biên niên sử hoành tráng như Tolkien, Robert Plant lại đưa Paganism một cách nhẹ nhàng và tinh tế trong những bài hát của mình. Ông đưa mà như không đưa, không một lời lý giải và chẳng hề quan tâm người nghe có hiểu ông không. Vì sao? Có phải vì ông chỉ muốn một số ít những người thực sự quan tâm mới xứng đáng được tìm hiểu thêm? Hay chỉ đơn giản là ông muốn tạo ra một sự kì bí để câu khách? Theo tôi, Robert Plant làm vậy vì ông đã hiểu rất rõ bản chất của tư tưởng Paganism. Đó là nét văn hóa nhẹ nhàng và tự do hình thành chứ không phải là thứ cố tình ép buộc theo khuôn mẫu. Thay vì phải giải thích dài dòng cho người nghe, Robert Plant còn làm tốt hơn, khi qua bàn tay của Led Zeppelin, người nghe có thể trực tiếp cảm nhận thấy được những tư tưởng Pagansim qua từng nốt nhạc đầy biến ảo trong tâm thức của mình mà có khi chẳng cần phải hiểu biết gì về nó.

Và cuối cùng, thứ lôi cuốn nhất Robert Plant và Led Zeppelin ở Paganism đó chính là ma thuật. Nếu như The Beatles lôi cuốn người nghe nhạc bằng chủ đề ma túy và những thứ chính trị nửa vời hay The Rolling Stones khai thác những hình ảnh bất cần, đường phố, thì ở album thứ tư này, Led Zeppelin đã tạo cho mình một đường hướng mới, với những nguồn năng lượng và tư tưởng rất riêng từ ma thuật. Thứ ma thuật đó có từ đâu? Ngoài những phép biến ảo của âm nhạc và lời hát, hãy nhìn vào cái bìa của album này thì biết, bốn biểu tượng rành rành trên bìa đó còn gì khác ngoài là những bùa chú của những thầy phù thủy của Led Zeppelin. Những biểu tượng là cách những druid của ngày xưa sử dụng để giao tiếp, chúng không dùng cho ý thức của chúng ta, mà là dành cho vô thức. Chúng ta còn thấy ma thuật đó trong các lá bài tarot ẩn hiện trong những hình ảnh của bìa đĩa Led Zeppelin IV. Lão già gánh củi nặng trĩu trong bức tranh kia, còn là ai khác ngoài lá bài Ten of Wands, vốn đại diện cho gánh nặng của ban nhạc với nền âm nhạc thế giới và của chính Robert Plant với nền văn hóa Paganism trên vai. Bức tranh ấy được đặt trong một bối cảnh cũng rất hợp lý, trong một ngôi nhà đổ nát với phía sau là những dãy nhà cao tầng mọc lên vun vút. Đó là sự cảnh tỉnh của Led Zeppelin với người nghe, với những con người của xã hội hiện đại đang dần đánh mất đi những giá trị xưa cũ và tốt đẹp, đánh mất đi những điều tuyệt vời mà tự nhiên ban tặng. Ảnh bìa còn lại của album cũng lại là một lá tarot khác: the Hermit, đại diện cho sự thông thái của những vị druid một thời, xa lánh tục trần mà ôm ấp lấy thiên nhiên. Trong The Magic Arts in Celtic Britain của Lewis Spence, ông đã nhấn mạnh những ghi chép về phương thức mà các druid thời xa xưa tạo ra ma thuật và tương tác với các thế lực siêu nhiên: qua âm nhạc. Đó, giờ chúng ta đã hiểu họ chưa? Led Zeppelin chính là những druid của thời đại bây giờ và âm nhạc của họ cũng chính là ma thuật được trao cho chúng ta. Hãy thử nhìn những concert sau này của ban nhạc so với trước đây, chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đáng kinh ngạc. Nếu như trước Led Zeppelin đóng bộ trên sân khấu và có phần xa cách với khán giả thì từ album thứ tư trở đi hình ảnh của Led Zeppelin đã thay đổi khác hẳn. Led Zeppelin đã chuyển mình thành Led Zeppelin mà chúng ta vẫn biết, thành những gã mặc quần áo lòe loẹt và hoạt bát như những người Celts xưa. Buổi hòa nhạc của họ không chỉ có mỗi âm nhạc mà còn có những nụ cười, những điệu nhảy và sự hòa hợp của con người với con người. Còn gì lý giải tốt hơn cho sự chuyển biến đó ngoài ma thuật?

 


Led Zeppelin IV Cover Art

Stairway to Heaven và chặng đường trở về với Paganism

Khi chắp bút viết lên Stairway to Heaven, Led Zeppelin thực sự muốn có một khúc trường ca hoành tráng để ghi lại dấu ấn về sự trưởng thành của cả ban nhạc. Nếu ai đã nghe qua bài hát dù chỉ một lần, ta sẽ thấy ngay ý tưởng xuyên suốt của Jimmy Page là một bản nhạc đi từ nhẹ nhàng, sâu lắng tới mạnh mẽ, hoang dã; đi từ tiết tấu chậm rãi, thảnh thơi, tới kịch tính và dồn dập, nơi mà có thể phô diễn tất cả những gì tốt nhất của từng cá nhân trong ban nhạc. Nói cách khác, Stairway to Heaven như một câu truyện, một chặng đường. Nó cũng có khởi đầu, cao trào và kết thúc. Hệt như câu truyện về những chàng trai Hobbit phải rời bỏ làng Shire yên bình, lao vào một chuyến phiêu lưu đầy hiểm nguy, rong ruổi suốt vùng đất Middle Earth màu nhiệm ở một tác phẩm văn học nào đấy vậy.

“There's a lady who's sure

All that glitters is gold

And she's buying a stairway to Heaven

When she gets there she knows

If the stores are all closed

With a word she can get what she came for

Oh oh oh oh and she's buying a stairway to Heaven”

Mở đầu câu chuyện chúng ta được giới thiệu về một nhân vật: a lady, một người phụ nữ bí ẩn mà mãi đến cuối bài ta mới được biết thêm một chút về cô ta: Who shines white light and wants to show. Có lẽ những người say mê The Lord of the Rings sẽ "gán ghép" ngay nhân vật Lady Galadriel - nữ hoàng của người elves ở khu rừng thần thánh   Lothlórien, nơi những chiếc lá không bao giờ rụng xuống mà hóa thành vàng ròng - How everything still turns to gold. Thế nhưng, xin hãy đừng vội kết luận mà hãy nhớ rằng Robert Plant chỉ thích “vay mượn” cái biểu tượng của nhân vật sẵn có để viết câu truyện của riêng mình mà thôi.

Có thể khẳng định hình tượng lady ở đây là để đại diện cho những kẻ tự xưng là cao quý, quyền lực, sống xa rời với đời thực. Vì sao ư? Bởi vì tới câu thứ hai ta sẽ thấy nhân vật lady ấy đang có một tư tưởng sai lệch: all that glitters is gold. Đây lại là một trích dẫn khác mà Robert Plant "mượn" từ tác phẩm kinh điển The Lord of the Rings của Tolkien. Ở đó, Tolkien đã viết:

“All that is gold does not glitter,

Not all those who wander are lost;

The old that is strong does not wither,

Deep roots are not reached by the frost.”

Đoạn trên là một vài câu thơ nhắn nhủ những chàng trai Hobbit khi đi tìm kiếm Aragorn, người thừa kế xưng đáng cho ngai vàng của loài người đang phải lưu lạc trong dân gian. Dịch tiếng Việt cả đoạn thơ ấy, có thể chỉ cần dùng một dòng đơn giản: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Những gì đẹp đẽ hào nhoáng bên ngoài, chưa chắc đã phải thứ gì quý giá.  Vậy thì với người lady kia, cô ta không hẳn là một nữ vương thánh thiện như trong câu truyện của Tolkien, mà chỉ là một kẻ trọng cái hào nhoáng bên ngoài. Đây có vẻ là một nhân vật phản diện chứ chẳng phải là chính diện như ta nghĩ ban đầu.

Phần sau của đoạn này, chúng ta được biết thêm một thông tin nữa: she's buying a stairway to Heaven. Hãy để ý kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy cô ta muốn mua - buying, nhưng không phải cô ta đã mua mà cô ta chắc sẽ mua. Chỉ khi tới thiên đường của mình, cô ta mới biết liệu mình có thể có mọi thứ trên đời. Có lẽ, chúng ta cũng từng chứng kiến biết bao nhiêu kẻ sẵn sàng vung tiền cúng bái cho những tổ chức tôn giáo, để đổi lấy một lời hứa viển vông về một sự sống sau cái chết. Liệu có đơn giản rằng mọi thứ đều có thể mua được, kể cả chuyện sống hay chết?

Thế nhưng, vẫn còn một nhân vật lady khác mà được ít người biết đến, mà có vẻ còn liên quan chặt chẽ tới câu truyện của Robert Plant hơn, đó là nhân vật lady trong câu truyện cổ Echtra Condla trong kho tàng sử thi của người Celts, được nhắc tới trong cuốn The Magic Arts in Celtic Britain. Câu chuyện kể về Conle, hoàng tử của vùng Ireland, bỗng một ngày gặp một người phụ nữ kì lạ tới từ vùng đất thần thánh ở phía Tây - When I look to the west. Cô ta hứa hẹn rằng sẽ dẫn chàng tới vùng đất ấy, nơi chỉ có an nhàn và hưởng thụ tới muôn đời. Nhưng lạ thay, chỉ mình Conle nghe thấy những gì người phụ nữ ấy nói. Vua Conn, cha của Conle, thấy vậy mới hoảng hồn đi gọi vị druid thân cận của mình hóa phép để đuổi cô ta đi khỏi vương quốc. Trước khi rời khỏi Ireland, cô ta có nhắn nhủ lại với vua Conn rằng: những thứ hủ tục Paganism của các người rồi sẽ bị loại bỏ, những thánh thần mới sẽ đến với dân tộc của các người!

Thế rồi cô ta vứt lại một quả táo thần cho Conle. Kì lạ thay, quả táo đó ăn mãi không bao giờ hết. Conle từ đó đã hoàn toàn bị thuyết phục. Để đến một ngày, chàng hoàng tử mang thuyền lao ra ngoài biển cả và không bao giờ trở về nữa. Chàng có đến được vùng đất hứa hay đã bỏ xác dưới đáy biển sâu từ lâu rồi?


Connla and the Fairy Maiden -  John D. Batten (1892)

Câu truyện cổ Echtra Condla là lời tiên tri về sự tận thế của chính nét văn hóa Pagan, về một thế lực tôn giáo mới sẽ bùng phát và xóa sạch hết Paganism tại Châu Âu: đạo Thiên Chúa. Vùng đất kia, tưởng là màu nhiệm, sung sướng biết bao, thì đối với Paganism nó còn là miền đất của cái chết, là địa ngục của trần gian. Con người không bao giờ chết, con người đắm mình trong những thỏa mãn, dục vọng, thì cũng có nghĩa rằng họ đã chết về mặt vô thức, cái bản ngã của con người vì thế cũng phải mất đi. Vậy thì với những người Celts, đó chẳng khác gì địa ngục. Trong văn hóa của họ, con người mất đi sẽ được hòa mình với thiên nhiên hay đầu thai thành kiếp khác, chứ không phải là những kẻ bất tử chỉ biết hưởng vui thú. Dưới góc nhìn qua hình ảnh nhân vật lady thứ hai, ta chợt thấy Stairway to Heaven chưa hẳn đã là dẫn con người ta đến với thiên đàng thực sự.

Cũng không thể không nói tới sự hòa hợp của âm nhạc với bối cảnh của đoạn mở đầu này. Quả thực, chỉ với những câu nhạc Arpeggio hết sức đơn giản trên cây đàn guitar, Jimmy Page đã thể hiện được toàn bộ sự cao sang, quý tộc của hình ảnh nhân vật lady, nhưng lại để lại trong tâm trí người nghe chút gì đó trầm mặc và hoài nghi. Thế nhưng, nếu muốn khen ta phải khen cái tài của JPJ trong việc tạo ra một ambiance đậm chất thần thánh và nhiệm màu như thực sự đưa người ta đến thiên đường. Cái không gian âm nhạc mà JPJ tạo ra ấy cũng không kém phần dịu dàng như lời dẫn truyện cuốn hút người nghe vào cuộc phiêu lưu cùng với ban nhạc.

“There's a sign on the wall

But she wants to be sure

'Cause you know sometimes words have two meanings

In a tree by the brook

There's a songbird who sings

Sometimes all of our thoughts are misgiving

Ooh, it makes me wonder

Ooh, it makes me wonder”

Nhịp độ của bài hát được đẩy lên qua những cú vẩy hợp âm đơn giản của Jimmy Page cạnh những nốt bass ẩn hiện của JPJ. Chúng ta lại tiếp tục hành trình của nhân vật “phản diện” của chúng ta: the lady. Ở đoạn này, nhân vật lady bỗng thấy mình phải băn khoăn, nghi ngờ về con đường mình đã chọn. Ở một bên, cô ta chất vấn những lời tiên tri thảm họa của Kinh thánh - sign on the wall, như cái cách tôn giáo này đe dọa người ta phải tuân theo nó. Cô ta vẫn tin vào Thiên Chúa giáo, nhưng vẫn thật phân vân, không biết mình đã giải nghĩa đúng những điều mình được răn dạy hay chưa. Ở phía bên kia, cô ta lại được thiên nhiên ôm ấp và vẫy gọi. Những hình ảnh rất đỗi thân thuộc như cái cây, dòng suối, hay chú chim hót, tưởng như chẳng có ý nghĩa gì, nhưng chúng chính là đại diện mạnh mẽ nhất của Paganism. Ở đó, mỗi nhành cây, ngọn cỏ, hay cơn gió đều có thể là một vị thần, là hóa kiếp của người đi trước, hay đơn giản chỉ là phép thuật. Paganism phải chăng đang khuyên nhủ nhân vật lady: hãy nghĩ lại về quyết định của mình đi, cuộc sống còn có nhiều ý nghĩa hơn thế nữa cơ mà, vật chất bên ngoài chẳng bao giờ có thể thành liều thuốc cho tinh thần của bạn được.

“There's a feeling I get

When I look to the west

And my spirit is crying for leaving

In my thoughts I have seen

Rings of smoke through the trees

And the voices of those who standing looking

Ooh, it makes me wonder

Ooh, it really makes me wonder”

Câu truyện giờ mới thực sự bắt đầu với nhân vật chính diện, khi người nghe bất ngờ được chuyển qua góc nhìn thứ nhất. Ở đây, I có thể là ai? Là Robert Plant kể lại hành trình của cuộc đời mình hay là chính chúng ta những kẻ đang phân vân lựa chọn con đường sống cho mình? Không thể biết được. Điều chúng ta biết là nhân vật này mới thực sự là nhân vật chính diện trong câu truyện cổ tích của Robert Plant.

Chúng ta cũng được thấy một lần nữa cuộc chiến tranh tư tưởng của nhân vật chính - my spirit is crying for leaving, giống như những gì xảy ra với nhân vật lady. Có lẽ không khó để ta liên tưởng tới hình ảnh chàng Hobbit trẻ Frodo phải hy sinh cuộc sống an nhàn và hưởng thụ tại xứ Shire để bắt đầu cuộc hành trình phá bỏ lời nguyền của chiếc nhẫn đầy gian nan và nguy hiểm. Nhìn về phía Tây - look to the west, chỉ đơn giản là chàng Hobbit nhìn về những cánh đồng bạt ngàn màu xanh của xứ Shire, hay là Robert Plant đang gạt đi những gì mình được biết về lối sống hiện đại để tự tìm lối đi cho cuộc đời mình. Nên nhớ trong câu truyện Echtra Condla, cái mảnh đất phía Tây màu nhiệm kia chỉ là những thứ khoa trương phù phiếm, là địa ngục trần gian, nơi con người chỉ có ham muốn chứ không có khát vọng. Dứt bỏ được với những cám dỗ trần tục, vượt qua được những gì Conle không thắng nổi, nhân vật chính của chúng ta mới có thể thực sự lên đường. Chúng ta cũng vậy thôi, nếu không dũng cảm đứng lên và đương đầu với cuộc sống, chả lẽ chúng ta cứ ngồi chờ chết hay sao? Cứ thế trên chặng đường của tư tưởng mới được khai thông, bao quanh nhân vật chính của chúng ta lúc này - in my thoughts, giờ đây chính là thiên nhiên ngập tràn, là những phép ma thuật của những vị druid thông thái ngày xưa - Rings of smoke through the trees - để liên lạc với những vị thần đích thực. Trong câu truyện Silmarillion của Tolkien, chúng ta được biết đến những vị thần khởi tạo sự sống, các Valar. Họ là những vị thần đầy quyền năng, nhưng không bao giờ can thiệp quá mức vào cuộc sống con người - the voices of who standing looking: vận mệnh con người là do chính mỗi chúng ta quyết định, không ép buộc và cũng không đòi hỏi.

“And it's whispered that soon, If we all call the tune

Then the piper will lead us to reason

And a new day will dawn

For those who stand long

And the forests will echo with laughter”

Vang vọng từ núi rừng thiên nhiên là những lời răn dạy của những vị thần Pagan: hãy đi theo âm nhạc, tiếng sáo của the piper, các ngươi sẽ tìm được con đường đến với chúng ta. Nhân vật the piper này dường như chúng ta đã gặp quá nhiều lần trong âm nhạc progressive, hay chí ít là đã được nói đến rất nhiều lần trong những bài viết trước. The Piper không phải ai khác mà chính là thần Pan, vị thần nửa người nửa dê của Paganism. Tiếng sáo ấy sẽ là sự khai sáng - a new day will dawn - cho linh hồn của nhân vật chính. Kể từ đó những cánh rừng bạt ngàn âm u kia sẽ không còn đáng sợ nữa, mà ở đó ngập tràn tiếng cười của tự nhiên, của những vị thần Pagan thông thái - the forests will echo with laughter.


Pan - Mikhail Vrubel (1899)

“If there's a bustle in your hedgerow

Don't be alarmed now

It's just a spring clean for the May queen

Yes, there are two paths you can go by

But in the long run

There's still time to change the road you're on

And it makes me wonder”

Tiếng trống dồn dập của John Bonham bất chợt vang lên là dụng ý âm nhạc đầy tinh tế của Jimmy Page nhằm thúc đẩy sự kịch tính của câu truyện khi hai luồng tư tưởng trái chiều lần đầu tiên gặp nhau. Quả thực, khi tiếng trống phải vào giữa chừng như thế, người nghe mới có thể trân trọng và thấy hết được tầm quan trọng của Bonham trong âm nhạc của Led Zeppelin. Tiếng trống ấy chẳng khác gì mạch nguồn tuôn tràn vào tư tưởng của nhân vật chính trong câu truyện kể từ khi được khai sáng nhờ tiếng sáo thần Pan. Đoạn này có phần được viết hơi bay bổng và cũng hơi đậm chất văn hóa Anh một chút, nên nhiều người có thể thấy nó khó hiểu. Thực ra ý nghĩa của nó rất đơn giản: hãy giang tay đón lấy tự nhiên và những tư tưởng mới mẻ, vẫn còn kịp để chúng ta thay đổi.

Nếu có những điều mới lạ đến với khu vườn nhà bạn - there's a bustle in your hedgerow - thì xin hãy đừng sợ hãi - don't be alarmed. Đó chỉ là những tư tưởng mới mẻ đến với bạn thôi mà - just a spring clean for the May queen. May queen được nói ở đây, là để chỉ một ngày hội cổ truyền để đón chào mùa xuân và sự tươi mới mà nó mang lại. Phần còn lại của đoạn tương đối rõ ràng: có hai con đường cho bạn lựa chọn đó, đường còn dài và bạn luôn có thể đổi hướng. Nhưng “bạn” ở đây là Robert Plant muốn nói với chúng ta hay là nhân vật tôi muốn nhắn nhủ với nhân vật lady. Đoạn sau cho chúng ta thấy có lẽ đáp án thứ hai mới là đúng.

“Your head is humming and it won't go

In case you don't know

The piper's calling you to join him

Dear lady, can you hear the wind blow?

And did you know

Your stairway lies on the whispering wind?”

Hỡi người phụ nữ kia ơi, hãy lắng nghe chính bản thân mình, những gì vẫn có trong đầu mỗi chúng ta chính là tiếng sáo của the Piper đang mời gọi chúng ta đến với một chân lý sống mới. Nó rất đỗi tự nhiên và chẳng có gì ràng buộc, cái khó chỉ là sự buông bỏ của mỗi người với vật chất mà thôi. Và người phụ nữ ấy có nghe thấy tiếng gọi của thần gió. rằng thiên đường của cô ta chẳng ở đâu xa ngoài chính sự tự do tự tại của Paganism - your stairway lies on the whispering wind?

“And as we wind on down the road

Our shadows taller than our soul

There walks a lady we all know

Who shines white light and wants to show

How everything still turns to gold

And if you listen very hard

The tune will come to you at last

When all are one and one is all

To be a rock and not to roll”

Trải qua biết bao nhiêu build up, tới lúc này mọi dồn nén được giải tỏa trong trường đoạn tiếp theo của bài hát mà Jimmy Page vẫn gọi là một cơn “cực khoái” của âm nhạc. Cũng như ở mọi câu truyện, đoạn cao trào chính là lúc những gì tinh hoa nhất được dịp phô diễn, là nơi mà những tư tưởng trái chiều chiến đấu với nhau một mất một còn, như trận chiến giữa hai phe thiện ác trong The Lord of the Rings vậy. Ở đây nhân vật lady xuất hiện dưới hình hài đẹp đẽ nhất của mình, một ánh sáng rực rỡ nhưng giả tạo - shines white light, đại diện cho những thứ vật chất phù phiếm, cho cuộc sống cao sang màu mè - everything still turns to gold. Dưới ánh sáng rực rỡ đó, nhân vật chính của chúng ta, mặc cho cái bóng của mình trượt dài - our shadows taller than our soul, vẫn đứng vững vàng trước cám dỗ ấy.  Cái bóng đó có khi không phải được tạo ra bởi nguồn sáng của nhân vật lady, nó được tạo ra từ chính chúng ta. Nếu tìm hiểu về Tâm lý học, chúng ta sẽ được biết về thuật ngữ the Shadow, là một trong những nguyên mẫu (archetype) trong nghiên cứu của Carl Jung về tâm lý con người và Alchemy. Shadow của mỗi người chính là bản thân họ, đó là những cảm xúc, những điều chúng ta muốn lảng tránh được chôn dấu sâu trong vô thức mỗi người. Chúng ta cố gắng trốn tránh nó đi nhưng không thể nào thoát khỏi. Đó là trận chiến lớn nhất của mỗi con người để thực sự trưởng thành và hoàn thiện bản thân. 

Tiếng guitar solo đầy dụng ý của Jimmy Page dường như chia làm hai phe mà đan xen đối đầu nhau. Lúc thì ông đánh đôi ba nốt gảy đơn giản, như tượng trưng cho chính cái giản đơn, mộc mạc của Paganism. Bên kia là những câu nhạc dài hơn, ngẫu hứng và phức tạp, như muốn đại diện cho những thứ vật chất của người phụ nữ kia vậy. Trong cuộc chiến căng thẳng ấy, nếu chúng ta cố gẵng tĩnh tâm mà lắng nghe bản thân mình - listen very hard, chúng ta vẫn sẽ có thể tìm thấy được con đường, được tiếng sáo của thần Pan - the tune will come to you at last.

Hai câu cuối cùng của đoạn này là cái niềm mong ước của Robert Plant muốn gửi gắm cho mỗi người nghe. Ông ước gì nếu mỗi con người chúng ta, đều được khai sáng như thế, cùng chung nhau trên một chặng đường tư tưởng như ông, chắc hẳn chúng ta sẽ thành một thực thể vững chãi như viên đá không bao giờ bị cuốn theo vòng xoáy của cuộc đời - to be a rock and not to roll. Con người khi ấy đã đạt được sự hòa hợp và hoàn thiện, ta cứ sống mặc cho cuộc đời chảy trôi.

“And she's buying a stairway to Heaven”

Khi nhưng chàng Hobbit trở về quê nhà sau trận chiến vinh quang với chúa tể của bóng tối, họ chỉ thấy khói lửa và tang tóc gây ra bởi Saruman và Wormtoungue, hai kẻ rũ bỏ loài người để tìm đến với bóng tối. Cũng như thế, kết thúc bài hát của Led Zeppelin cũng chỉ là một câu nhạc độc nhất mà trĩu nặng. Trải qua bao cuộc đấu tranh cực khổ, cái kết của câu truyện lại chẳng phải là chiến thắng của phe chính diện, của Paganism. Mọi thứ lại trở lại về sự trầm ngâm của phần đầu bài hát, the lady của chúng ta vẫn chẳng thay đổi, như sự ngậm ngùi chấp nhận của Robert Plant rằng xã hội loài người đã không còn dung nạp thứ văn hóa Pagan xa xưa.

Scouring of the Shire

Kết

Vậy đó, có lẽ Led Zeppelin cũng không hề đơn giản như chúng ta vẫn tưởng tượng. Có lẽ thứ gì bên ngoài có vẻ giản đơn thì phía bên trong lại là những công trình cầu kỳ và chi tiết, như thỏi vàng ròng chẳng cần lấp lánh mà tràn đầy giá trị. Với Stairway to Heaven, Led Zeppelin đã nhẹ nhàng cho chúng ta cái bài học đấy một cách đầy tinh tế. Xin đừng quá chú trọng vào cái vẻ bên ngoài, vào cái hào nhoáng của âm nhạc, mà vô tình quên đi những cái triết lý thâm thúy mà giản đơn ẩn vào phía trong.

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Pink Floyd - Jugband Blues: Tự sự của một gã điên hay lời cảnh tỉnh của một kẻ đi khai sáng


Pink Floyd - Jugband Blues: Tự sự của một gã điên hay lời cảnh tỉnh của một kẻ đi khai sáng

Đã bao giờ ta giật mình giữa đêm khuya, bất chợt hồi tưởng về một điều mình đã làm rất sai trong quá khứ, để rồi trằn trọc không ngủ được. Ai mà chẳng đã từng có cái thời bồng bột, vì bản thân mình mà không quan tâm đến những người xung quanh. Ai mà chẳng có lần buộc phải đưa ra một quyết định khó khăn, để rồi cái lựa chọn còn lại cứ đeo đuổi ta đến suốt cuộc đời. Làm người là phải nghiệt ngã như vậy đấy. Tham vọng cá nhân và áp lực của xã hội sẽ đưa đẩy ta đến những tình huống như thế, hành động của con người lúc ấy dường như cũng chẳng còn sự lựa chọn nào tốt hơn. Kể cả khi đó là những nghệ sỹ lớn, những rock star với cuộc sống quá đủ đầy, thì cái sự đời đó cũng vẫn đeo bám họ. Đó chắc hẳn là những gì mà các thành viên ban nhạc huyền thoại Pink Floyd nhớ tới mỗi khi người ta nhắc đến cái tên Syd Barrett.  

Syd Barrett – Một phút huy hoàng …

“Remember when you were young,
You shone like the sun …”
- Shine on You Crazy Diamond – Wish You Were Here – Pink Floyd

Roger Keith Barrett sinh ra và lớn lên ở thành phố Cambridge yên bình với dòng sông Cam lững lờ chảy trôi mỗi ngày. Lớn lên trong một gia đình trung lưu truyền thống, cậu bé Roger Barrett đã có một tuổi thơ trọn vẹn trong vòng tay thương yêu của cha mẹ. Ngay từ nhỏ, cậu đã bộc lộ khả năng thiên bẩm với mọi loại hình nghệ thuật. Mặc dù đạt được một giải thưởng nhỏ nhờ chơi piano, Barrett tìm kiếm thấy tình yêu của mình với hội họa, thơ ca và đặc biệt là với cây đàn guitar. Tài năng, hoạt bát và sáng tạo, cũng chẳng lạ gì khi Barrett sớm đã trở thành tâm điểm của chúng bạn. Như ánh mặt trời ló dạng khỏi màn sương mù mịt của thành phố cổ kính, Barrett có một sức cuốn hút kì lạ, soi sáng ra những tư tưởng lớn cùng chiều. Những cái tên như Roger Water và David Gilmour lần lượt trở thành những người bạn thân của Roger Barrett ngay từ thuở thiếu thời, với chung niềm đam mê theo đuổi nghệ thuật. Có phải vì thành phố Cambridge quá nhỏ bé hay là vì định mệnh đã an bài, mà sau này hai người bạn học ấy trở thành những nhân vật chính nhất trong bộ phim cuộc đời ông.

Cambridge, 1950

Thời niên thiếu của Roger Barrett cứ thế trôi qua bình lặng như dòng sông Cam đắm chìm trong không gian nghệ thuật và kiến trúc cổ điển của thành phố. Xen giữa thời gian học vẽ tranh và làm thơ, ông cũng tranh thủ có ban nhạc riêng của mình, với nghệ danh Syd Barrett đễ tránh bị nhầm với một tay guitar bass chơi jazz nào đó. Cùng với người bạn thân David Gilmour hàng ngày nghiên cứu và trao đổi các ngón đàn, có ai ngờ rằng hai cậu thanh niên đó đều sẽ trở thành những guitar heroes hàng đầu thế giới.   

Và câu chuyện bắt đầu khi chàng trai Roger “Syd” Barrett quyết định rời bỏ Cambridge để đến với thủ đô London náo nhiệt để tiếp tục con đường nghệ thuật. Số phận đã sắp đặt cho Syd gặp lại người bạn cấp 1 Roger Water và hai thành viên khác là Richard Wright và Nick Mason cùng trong ban nhạc của Water lúc bấy giờ, để rồi Pink Floyd ra đời năm 1965. Không phải ai khác mà chính là Syd đã nghĩ ra cái tên ấy, bằng cách ghép tên hai nghệ sỹ chơi blues nổi tiếng mà ông yêu thích. Một tên tuổi vang danh mọi thời đại ra đời chỉ đơn giản vậy thôi.

Trong thời gian đầu hoạt động, Pink Floyd vẫn chưa có đường hướng rõ ràng, chủ yếu chơi loại nhạc phổ biến thời bấy giờ là R’n’B (không phải loại nhạc R&B đương đại ngày nay) và Blues. Chỉ tới khi làn sóng Psychedelic xuất hiện, Syd mới thực sự tìm ra định hướng âm nhạc mà ông và các thành viên trong ban nhạc có thể khẳng định tối đa khả năng của mình: âm nhạc Psychedelic. Psychedelic được dùng để nói đến trạng thái ảo giác khi phê acid, loại ma túy với tên gọi LSD rất phổ biến trong giới trẻ thời bấy giờ. Thế nhưng, trào lưu Psychedelic không phải hoàn toàn chỉ là ma túy, mà nó còn là xu hướng “phản văn” – counter culture của lớp trẻ trong trào lưu Hippi đang ngày càng lớn mạnh. Trong khi cuộc chiến tranh tại Việt Nam đang leo thang và cuộc sống ở các quốc gia tư bản đế quốc như Anh đã quá thừa mứa, mối quan tâm của lớp trẻ lúc này là phản chiến, là hòa bình thế giới, là chống lại chính quyền, chống lại những tư tưởng giáo điều của Thiên Chúa và xã hội phương Tây. Phong trào counter culture ấy là khát khao của lớp trẻ với quyền tự do cá nhân mà không muốn bất kì sự ràng buộc nào. Ma túy, tình dục và phản chiến là những thứ được hưởng ứng và cũng là đề tài khai thác chính của nghệ thuật thời bấy giờ. Âm nhạc Psychedelic được ra đời trong bầu không khí rạo rực ấy, không một chuẩn mực và cũng không một giới hạn. Chơi Psychedelic không hẳn là chơi nhạc cho những kẻ say ma túy, mà nó là phải làm sao tái hiện cho người nghe cái ảo giác của thứ ma túy ấy bằng âm nhạc của mình. Vì thế, nó đòi hỏi người nghệ sỹ phải không ngừng tìm tòi, không ngừng sáng tạo với âm nhạc và kĩ năng trình diễn. Và Syd Barrett đã có quá thừa những tố chất ấy.            

Pink Floyd trong thời kỳ đầu, Syd Barrett đứng trước

Với đường hướng mới, cái tên Pink Floyd nhanh chóng nổi lên trong giới nhạc underground. Điều cuốn hút người nghe đến với ban nhạc chẳng phải gì khác mà chính là Syd Barrett. Với vẻ ngoài điển trai như một tài tử điện ảnh, sức cuốn hút kỳ bí và khả năng chơi nhạc điêu luyện, Syd nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý, lôi cuốn người nghe đến với thứ âm nhạc thử nghiệm của mình. Syd đã tìm ra nơi mà có thể đưa thơ văn và phong cách hội họa trừu tượng được học từ Cambridge được hòa nhập vào với tình yêu âm nhạc mãnh liệt. Và cứ thế bản hit đầu tiên đã ra đời: Arnold Layne. Trong lúc này, Pink Floyd đã viết được một số bài hát cho album đầu tay, nhưng cả nhóm đã quyết định đưa Arnold Layne trở thành single đầu tiên, đơn giản chỉ vì nó ngắn gọn và dễ nghe, điều mà sau này là thứ Syd ghét cay ghét đắng. Mặc dù không được lên sóng phát thanh do nội dung của bài hát quá nhạy cảm với công chúng thời bấy giờ (viết về một gã biến thái trộm đồ phụ nữ cái thời Syd và Water còn là hai đứa trẻ lít nhít), chính thứ bị cấm đoán đó lại càng gây nên sự tò mò với người nghe. Nhận thấy sức hấp dẫn của Pink Floyd và Syd Barrett, EMI đã tìm đến và ký ngay hợp đồng với ban nhạc. Xuất hiện dưới ánh đèn của truyền thông, Syd Barrett mỉm cười với đôi mắt ngời sáng: “Chúng tôi muốn trở thành những ngôi sao”. Đến khi single thứ hai ra đời - See Emily Play, nó đã được công chúng đón nhận say sưa trong những âm thanh kỳ ảo được tạo ra từ chiếc zippo kéo qua dây đàn như chơi violon của Syd Barrett.   

See Emily Play - Pink Floyd

Thành công với hai single đầu tay do Syd Barrett viết, Pink Floyd lại lao vào phòng thu để cho ra album đầu tiên của nhóm nhạc: The Piper at the Gates of Dawn, chủ yếu đều do Syd Barrett viết nhạc và lời. Có lẽ để phân tích tỉ mỉ một album với đầy những yếu tố huyền ảo, những định ý phức tạp và mối liên hệ sâu xa với văn hóa và lịch sử thế giới thì cần phải có riêng một lần viết khác mới xứng đáng. Thế nên ở đây chỉ là những gì chung nhất của album ấy thôi.

Trước hết phải kể đến cái đặc biệt của tiêu đề album. Nó được lấy cảm hứng từ một bộ truyện thiếu nhi mà Syd rất yêu thích của nhà văn Kenneth Grahame - The Wind in the Willows. Thực ra thì cuốn sách này cũng không hẳn là giành cho trẻ em, mà như những gì tác giả đã viết: “cho những tâm hồn tươi trẻ”. Dù sao đi chăng nữa, nó đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của hàng triệu trẻ em nước Anh. The Wind in the Willows là sản phẩm sinh ra từ trí tưởng tượng và tình yêu thương của người cha viết cho chính đứa con trai của mình, một đứa trẻ sinh ra với khiếm khuyết và đã tự kết liễu đời mình năm 20 tuổi. Cho tới khi về già và khó khăn về tài chính với đồng lương hưu ít ỏi, Kenneth Grahame buộc phải viết sách để kiếm tiền. Ông đã chắp nối những câu truyện kể ngày xưa vào thành một cuộc phiêu lưu kì thú của hai nhân vật chuột chũi (Mole) và chuột đồng (Ratty) và viết thêm mới hai chương truyện nữa. Một trong số đó là chương thứ 7 - The Piper at the Gates of Dawn. Trong đó, hai nhân vật chính đi tìm kiếm đứa con trai của rái cá bị lạc. Chúng đi mãi đi mãi, đi qua bờ sông tới một vùng đất bí ẩn thì bị cuốn hút bởi tiếng sáo lôi cuốn đến lạ kỳ. Ở đó, chúng đã gặp được con trai của rái cá dưới chân Pan­, một vị thần nửa người nửa dê trong nét văn hóa Paganism sơ khai. Sau khi quỳ xuống trước Pan hành lễ thì bình minh cũng ló dạng và vị thần cũng đã biến đâu mất. Hai con vật vui vẻ nhưng luyến tiếc chèo thuyền trở về nhà cùng với đứa con của rái cá. Chắc hẳn, khi lựa chọn cái tên The Piper at the Gates of Dawn cho album đầu tay, dựa theo một câu chuyện cổ tích huyền bí, Syd có lẽ cũng đang ví mình như vị thần Pan kia, mang phép mầu của âm nhạc đến cho nhân loại trong mỗi bài hát của mình.


Về tổng thể album, The Piper at the Gates of Dawn có một phong cách hoàn toàn khác với âm nhạc Pink Floyd những năm sau này. Nó không được xây dựng theo dạng concept album trau truốt từ đầu chí cuối như những gì Roger Water tạo ra. Trái lại, mỗi bài hát trong album như những bức tranh riêng rẽ được trưng bày trên bức tường của một phòng triển lãm. Mỗi bài hát là một tác phẩm trừu tượng với ngôn từ lôi cuốn nhưng gần gũi, hay nhưng khó hiểu. Chẳng khác gì những bức tranh của Pablo Picasso vậy, với mỗi người nghe các bài hát sẽ tự chọn cho mình một hình hài biến tấu khác nhau để ai cũng có thể tìm được một góc của mình trong đó. Trong album ấy, ta có thể đến với những chuyến phiêu lưu kỳ thú tới không gian vũ trụ bao la đến đáng sợ qua những âm thanh thử nghiệm lạ kỳ và phức tạp với Astronomy Domine hay Interstellar Overdrive, đi đến những miền cổ tích xa xưa qua phong cách phối trộn của nhạc Rock, Jazz, với Folk Song, điểm xuyết đâu đó cả màu sắc phương Đông qua Matilda Mother, The Gnome, Chapter 24, rồi quay trở lại với những thứ hết sức đời thường với phong cách có phần hồn nhiên, huyên náo nhưng lại có lúc bí ẩn và tăm tối ở Lucifer Sam hay Bike.

Interstellar Overdrive - Pink Floyd

Vậy điều gì đã làm nên sức cuốn hút mãnh liệt của âm nhạc Pink Floyd dưới tay Syd Barrett? Đó là sự táo bạo, sẵn sàng thử nghiệm, kết hợp với hiểu biết sâu sắc về hiệu ứng âm thanh và phối hợp các tính năng của nhạc cụ. Nếu so nhạc Pink Floyd lúc ấy với âm nhạc hiện đại ngày nay thì có vẻ thứ âm nhạc này đã lỗi thời. Thế nhưng phải nói rằng khi album này trình làng cho công chúng lúc bấy giờ thì đảm bảo chưa từng ai nghe thấy thứ gì tương tự như thế trên đời. Cách chơi của ông là đơn giản nhưng mạnh mẽ, đánh thẳng vào cảm xúc người nghe. Phải nói rằng, Syd Barrett như một pháp sư đầy quyền năng, có thể kiểm soát và định hình những thứ âm thanh tưởng chừng như hỗn loạn. Tỉ dụ như tiếng feedback, vốn là lỗi vòng lặp của âm thanh khi micro và loa liên tục truyền âm cho nhau gây ra tiếng thét chói tai thì với Syd nó lại được cẩn thận uốn nắn đưa vào khuôn khổ của âm nhạc. Bằng cách hiệu chỉnh âm ly và bộ chuyển âm, Syd cho phép mình biến đổi linh hoạt, lúc thì tạo ra những âm thanh nặng nề ma quái, lúc thì nhẹ nhàng chạy song song với tiếng piano của Wright, rồi bất chợt lại hạ tông xuống đánh cùng tiếng bass và trống của Roger và Mason. Một cái hay nữa của âm nhạc của Pink Floyd thời kỳ đầu là sự hòa quyện của tiếng piano diatonic của Wright với âm thanh guitar chromatic của Syd (hiểu đơn giản là diatonic chỉ là những nốt trắng của cây đàn piano còn chromatic là những nốt còn lại). Chính cách chơi đấy cho phép Syd tự do biến tấu, thoát khỏi hoàn toàn các khuôn khổ âm nhạc thông thường, khiến cho người nghe đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác, không biết ông sẽ chơi gì tiếp theo. Những nốt chromatic vốn sinh ra để hoàn thiện và trở về với các nốt diatonic, nhưng nếu chỉ chơi có mỗi chromatic, mỗi khổ nhạc dường như bị bỏ ngỏ, khiến cho người nghe có cái cảm giác “ngứa ngáy”, hồi hộp chờ cung nhạc được hoàn thiện, nhưng không, nó chỉ kết thúc ở đó thôi. Cùng với Wright, Syd đã vô tình tạo ra tritone paradox, hay còn được gọi là Diabolus in Musica (Ác quỷ của Âm nhạc), cái mà những nhà soạn nhạc cổ điển khuyên học trò của mình phải tránh thật xa. Việc sử dụng tritone đã làm ra cái chất “khó nghe” cho âm nhạc của Syd, bởi lẽ não bộ của con người sinh ra là để tìm kiếm những âm thanh hòa hợp. Như một người bước xuống cầu thang trong bóng tối, chợt phát hiện mình bước hụt một bước, chính cái cảm giác đó cũng là cảm giác khi con người nghe thấy điệu tritone này. Sự kết hợp lạ kỳ của chromatic và tritone ấy đã tạo nên cái chất Psychedelic cực kì riêng biệt của Pink Floyd so với các ban nhạc Rock cùng thời.

Sẽ là khiếm khuyết nối bỏ qua tài năng về ngôn ngữ của Syd, lời hát mà ông viết ra cũng có cái tính chất dị thường chẳng kém gì âm nhạc của ông. Những ngôn từ ấy nếu đứng riêng biệt thì tưởng là dễ hiểu nhưng khi kết hợp với nhau lại buộc người nghe phải tự mình suy tư ngẫm nghĩ. Cái hay của nhạc Psychedelic và Progressive là ở chỗ đấy, nó cho con người ta được cái quyền tìm hiểu và sáng tạo, hệt như những gì mà phong trào “phản văn” đang khao khát. Cũng có nhiều người cho rằng Syd viết lời khi đang phê acid, chúng đều vô nghĩa mà thôi, đừng có mất công tìm hiểu làm gì cho mệt, cũng như khi ta nghe Stairway to Heaven của Led Zeppelin vậy, chính tác giả cũng không biết mình viết cái gì. Thế nhưng, phải nhớ rằng hầu hết phần lời của các bài hát đã được Syd viết từ lâu trong một quyển sổ thơ từ thời niên thiếu của ông ở Cambridge, có lẽ Syd Barrett thực sự có một dụng ý nào đó chỉ là không nói ra cho chúng ta mà thôi. Dị thường trong âm nhạc và cũng bất thường trong lời hát, Pink Floyd của Syd Barrett là thứ khác biệt cần thiết sinh ra cho nhạc Psychedelic. Chắc hẳn khi The Beatles đang ngồi thu âm album Psychedelic đầu tiên của mình - Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band ở phòng thu bên cạnh mà có vô tình qua nghe Pink Floyd, Mccartney phải quay sang bảo với Lennon rằng: “Tao cứ tưởng là mình đã biết chơi Psychedelic rồi mới phải”.

Thành công rực rỡ nhanh chóng đến với Pink Floyd sau khi album đầu tay ra đời, với hàng loạt lời mời lưu diễn khắp thế giới. Mọi thứ dường như đến quá nhanh, chỉ vài tháng trước những chàng trai trẻ của Pink Floyd chỉ mới là một ban nhạc biểu diễn ở các câu lạc bộ vô danh, thì bấy giờ họ đã có những show diễn cạnh những tên tuổi lớn như Jimmy Hendrix, The Beatles hay The Beach Boys. Mỗi show diễn của Pink Floyd là sự phối trộn của công nghệ và nghệ thuật chưa từng có. Ở đó là sự kết hợp hoàn hảo của âm nhạc với ánh sáng, của hệ thống âm thanh vòm với những thước phim trừu tượng trình chiếu phía sau ban nhạc. Đây đã trở thành một công thức đã đi theo Pink Floyd trong suốt chặng đường của họ sau này. Trong không gian nghệ thuật đầy ngẫu hứng và ảo giác, Syd Barrett đứng đó cầm trên tay cây đàn Fender với những chiếc đĩa CD gắn lên vỏ, phản chiếu ánh sáng sân khấu xuống người nghe như vầng mặt trời rực rỡ giữa trưa hè - một người nghệ sỹ đang từng bước tiến lên đỉnh cao nhất của vinh quang.

Pink Floyd, 1967

… rồi vụt tắt

“Now there's a look in your eyes,
like black holes in the sky…”
- Shine on You Crazy Diamond – Wish You Were Here – Pink Floyd

Pink Floyd là một ban nhạc diễn live với tần suất khủng khiếp so với các ban nhạc cùng thời. Mỗi buổi diễn người nghe lại đòi hỏi một trải nhiệm mới, như những con nghiện muốn tìm kiếm một liều mạnh hơn thế nữa. Không chỉ có đòi hỏi từ phía công chúng, những ông chủ phòng thu cũng ra sức thúc ép những con gà đẻ trứng vàng của mình phải làm nhiều hơn thế nữa. Với vai trò thủ lĩnh, không lạ gì khi áp lực dồn về phía Syd là nhiều nhất, phải làm sao trình diễn thật hoàn hảo, phải làm sao cho ra liên tiếp những bài hát phù hợp với những xu hướng mới nhất, phải làm sao cho người nghe những hiệu ứng âm thanh lạ tai hơn nữa. Áp lực kéo theo áp lực, dần dà các thành viên ban nhạc chợt nhận ra rằng Syd đã kiệt sức, với chỉ 2 năm sau khi ban nhạc thành lập và cũng chỉ vài tháng sau khi album đầu tay chính thức ra đời.

Để chống chọi với áp lực ấy, Syd tìm kiếm chỗ dựa ở LSD, loại ma túy đã làm nên chính phong trào Psychedelic. Những người “bạn” của Syd ở thủ đô London náo nhiệt hầu hết đều là những kẻ nghiện ngập. Không những để cho ông lạm dụng ma túy một cách mất kiểm soát, mà họ còn cổ xúy cho hành vi ấy như một thứ thời thượng. Và cũng loại ma túy gây ảo giác ấy đã làm tâm trí ông không còn ở lại với trần thế nữa, như những lời mà các ông chủ phòng thu, các thành viên trong ban nhạc và những người “bạn thuốc” của Syd trả lời với cánh báo chí trong suốt những năm sau này. Ngày qua ngày, từ buổi biểu diễn này qua buổi biểu diễn khác, Syd bỗng chốc trở nên ngày càng “lạ”, từ những lần bỏ tập, bỏ thu âm, phá hoại dụng cụ đến những buổi biểu diễn mà Syd chỉ đứng đó nhìn chằm chặp xuống khán giả, mặc kệ cho ba thành viên còn lại muốn làm gì thì làm hay cái lần Syd chỉ chơi đúng 1 có một nốt nhạc trong cả buổi diễn. Tưởng chừng như ông đang sống ở một thế giới của riêng mình vậy. Người nghe thì cứ nghiễm tưởng đây là một thử nghiệm âm nhạc mới của Syd. Nhưng với các ông chủ phòng thu, họ đã chợt nhận ra người nghệ sỹ này cũng chỉ là con người chứ đâu phải là một thứ máy móc. Hàng loạt tour diễn nhanh chóng phải hủy bỏ và Syd cùng bạn gái được đưa đi nghỉ dưỡng với hy vọng ông sẽ quay lại tiếp tục với sự nghiệp âm nhạc dang dở. Thế nhưng, điều Syd nhận được ở kì nghỉ khi ông vừa đáp xuống sân bay là cái tiêu đề “Pink Floyd đã bỏ cuộc” của giới báo chí hiếu kỳ. Trớ trêu thay khi trở về, Pink Floyd lại tiếp tục lao vào những tour diễn ở Mỹ, với mật độ biểu diễn và số lượng khán giả còn khủng khiếp hơn nữa. Sự khác biệt quá lớn của hai nền âm nhạc đã làm cho Syd choáng ngợp. Chính sự nghiệp của ban nhạc - đứa con tinh thần của Syd - đã không cho ông có một chút cơ hội để hòa nhập trở lại. Trong suốt cả tour lưu diễn, Syd gần như không thể chơi nhạc và đã nhiều lần tìm cách bỏ trốn nhưng không thể. Một tâm hồn đã chán nản tới tuyệt vọng mà không có lối thoát, không biết bấu víu vào đâu.

Về đến nước Anh, một ngày bước chân tới studio, Syd bất chợt nhận ra người bạn thân nhất từ thời cấp 3 - David Gilmour đang cùng chơi với ban nhạc ở vị trí của mình. Ý tưởng của các thành viên khác là như thế này: chúng ta không thể thiếu cái tên Syd Barrett trong ban nhạc của mình, vậy thì cứ để Syd viết nhạc sau cánh gà, còn nhiệm vụ của Gilmour là đánh thế chân mỗi khi biểu diễn. Lúc ấy, David Gilmour đang thất nghiệp, kiếm sống qua ngày với nghề lái xe tải, thì chẳng dại gì mà ông không nhận lời. Những gì Syd đánh thì Gilmour cũng chơi được, họ đã cùng nhau lớn lên với cây đàn guitar cơ mà. Vậy là Pink Floyd tiếp tục chặng đường âm nhạc với thêm một thành viên nữa.

Thế nhưng, chỉ sau 4 đêm diễn, khi thấy Syd chẳng đóng góp được gì thêm, trong khi Gilmour đảm nhận quá tốt vai trò được giao, ba thành viên còn lại đã đổi ý. Đến đêm diễn thứ năm, khi đang trên xe đến nhạc hội, một người quay ra hỏi: “Này, chúng ta phải đón Syd chứ?” – “Kệ mẹ nó đi, chẳng ai quan tâm đâu”, những người khác trả lời. Kể từ đó, Syd Barrett không còn lưu diễn với ban nhạc mà chính ông đã nghĩ ra cái tên cho nó nữa. Như một con sói đầu đàn trầy trật sau một trận tranh đấu, trở về bỗng trở thành gánh nặng và bầy đàn đã bỏ lại nó chết dần trong một hang hốc, xó xỉnh nào đó.

Dù thế, Syd vẫn là một thành viên trong ban nhạc và ông vẫn có trong tay lịch lưu diễn. Vào một buổi hòa nhạc ở Imperial College, London, Syd bất ngờ tới tham gia. Khi bị từ chối lên diễn và phải đứng dưới sân khấu, đôi mắt ông vô hồn nhìn chằm chặp về phía ban nhạc, khi những khúc nhạc mình viết ra vang lên trong tiếng đàn của David Gilmour. Trong đôi mắt ngời sáng ngày nào giờ đây chỉ còn là sự trống rỗng và tăm tối, như lỗ đen trên vũ trụ đã rút cạn hết sức sống và đam mê của ông.   
    
Jugband Blues - đóng góp cuối cùng của Syd Barrett

Thời gian cứ thế trôi qua và Pink Floyd lại cùng ngồi với nhau ở phòng thu để chuẩn bị cho album thứ hai: A Saucerful of Secrets trong sự kỳ vọng của người hâm mộ. Lúc này, Syd lúc có lúc không trong các buổi tập, đóng góp trực tiếp của ông cũng không còn nhiều cho ban nhạc nữa. Trong cả album thứ hai này, chỉ có đúng một bài hát mà Syd tự tay viết được đưa vào. Đó chính là Jugband Blues và đây cũng là đóng góp cuối cùng của Syd Barrett cho ban nhạc Pink Floyd.

Trước khi phân tích kĩ hơn về bài hát này, thì cần lưu ý rằng cũng như những bài hát trước đây Syd viết và những nhạc phẩm sau này mà Pink Floyd sáng tác, những lời lẽ ngôn từ trong đó đều là “mở” cho mọi người nghe. Vì thế, chưa chắc những gì viết dưới đây đã hoàn toàn chính xác và có lẽ đó chỉ là sự tưởng tượng của người viết mà thôi.

Jugband Blues - Pink Floyd

Có lẽ khi nghe hết những giai điệu của bài hát, chúng ta sẽ băn khoăn tại sao không thể tìm ra nổi cái chất “Blues” như đã được marketing trong tiêu đề vì rõ ràng ở đây là những giai điệu kết hợp của Pop, Rock và Psychedelic điển hình. Phải nhớ rằng, việc ghép tên của một sự vật với từ “blues” đã là một mô típ gắn liền với thể loại nhạc này, để mỗi khi nghe tới cái tiêu đề thì người nghe đã mường tượng thứ nhạc sẽ được chơi trong bài hát rồi. Những từ ghép ấy thường là những thứ gắn liền với cuộc sống con người như: “Crossroad Blues”, “Bell Bottom Blues”, hay “Bullfrog Blues”, v..v.. Trong đó, những nghệ sỹ chơi Blues mượn một chủ đề gần gũi để nói lên nỗi sầu đời trong tiếng guitar ngẫu hứng và cảm xúc. Thế nhưng, muốn tìm được cái chất “Blues” của Jugband Blues, người nghe buộc phải tìm nó cả trong những câu chữ Syd viết chứ không phải chỉ trong chất nhạc mà ông chơi.

It's awfully considerate of you to think of me here
And I'm much obliged to you for making it clear
That I'm not here

Bài hát bắt đầu với giai điệu pop có phần upbeat với giọng ca đậm chất Anh của Syd trên gam Đô trưởng và nhịp 3/4 truyền thống, tương tự như tác phẩm mang phong cách British Invasion của những Beatles hay The Kinks. Sự xuất hiện của gam Đô trưởng dễ nghe trên tiếng đàn guitar gỗ mộc mạc mang lại một cảm giác tươi vui và phấn khởi. Đây là những lời cảm ơn lần cuối của Syd với khán giả, cũng như với những người bạn chơi nhạc của mình trong Pink Floyd. Nếu như câu đầu là lời cảm ơn nhẹ nhàng, có phần lịch sự thái quá, mặc dù Syd có viết “awfully” nên ta không biết đây là lời lẽ chân thành hay mỉa mai nữa, thì câu thứ hai thật đáng phải ngẫm nghĩ: tôi phải nói rõ rằng tôi không ở đây. Liệu đây là những tia nhận thức le lói sót lại của một kẻ tâm thần về tình trạng của chính bản thân, cảm thấy dần dần đánh mất tâm hồn và lý trí của mình, hay là lời khẳng định ngầm với tất cả mọi người rằng Roger Barrett bây giờ không muốn sống cuộc đời của ngôi sao Syd Barrett nữa?

And I never knew the moon could be so big
And I never knew the moon could be so blue

Mặt trăng và mặt trời, hai hình ảnh ấy xuất hiện rất nhiều trong ca từ của Pink Floyd, cũng như của nhiều ban nhạc Psychedelic/Progressive cùng thời khác, với mối liên hệ sâu xa tới nền văn hóa Paganism huyền bí trong lịch sử hình thành Châu Âu. Nếu nghe Pink Floyd nhiều, ta sẽ thấy Roger Water hay dùng mặt trời để đại diện cho chân lý, cho sự khai sáng về trí tuệ của con người như trong Echoes hay Set the Controls for the Heart of the Sun. Thế còn với mặt trăng thì sao? Trong văn hóa phương Tây và cả trong The Dark side of the Moon­ – album nổi tiếng nhất của Pink Floyd sau này, mặt trăng được sử dụng làm đại diện cho ánh sáng của sự lừa dối. Nó sáng đấy mà không phải vậy, bởi vì bản thân mặt trăng chỉ đánh cắp ánh mặt trời: “… as a matter of fact it’s all dark”. Danh vọng, tiền tài và địa vị, chúng là những ảo ảnh mà Syd muốn cảnh tỉnh cho ban nhạc, với những người bạn thân thiết nhất của mình: có lẽ con người chúng ta không cần nhiều đến thế, có lẽ chúng ta đang để xã hội điều khiển mình như những con rối không hơn không kém. Để rồi hàng chục năm sau, trải qua bao nhiêu tranh cãi nội bộ khiến những người bạn lâu năm còn không thèm nói với nhau nửa lời, tất cả những thành viên ban nhạc mới thấm thía những gì Syd đã viết ở Jugband Blues. Trong Shine on You Crazy Diamond, Pink Floyd cũng đã phải thừa nhận: “You reached for the secret too soon, you cried for the moon”.

Hơn thế nữa, mặt trăng cũng là đại diện của sáng tạo, của nghệ thuật, sinh ra để mê hoặc con người như những gì King Crimson viết trong album đầu tay của họ. Với Syd, mặt trăng của ông chắc hẳn là thứ nghệ thuật huyền ảo và diệu kì mà ông đam mê từ thuở bé. Pink Floyd của Syd Barrett là vậy, họ là một ban nhạc thử nghiệm vị nghệ thuật, là những chàng trai trẻ khám phá sự mới lạ của âm thanh - ánh sáng, và hơn hết là những người bạn thân thiết với xuất phát điểm giống nhau. Nếu như từ “Jugband” dùng để chỉ một ban nhạc không chuyên, chơi nhạc bằng những dụng cụ hàng ngày như xô, chổi, hay khăn giấy, bất kể thứ gì có thể tạo ra âm thanh mà chẳng phải nhạc cụ, thì quả thật Pink Floyd thời kỳ đầu chẳng khác là một “Jugband” với Syd.  Mặt trăng nghệ thuật của Syd thì thật nhỏ bé và nhẹ nhàng. Thế nhưng, qua thời gian, Pink Floyd đã có một mặt trăng khác, nó phải thật vĩ đại “so big”, nhưng sao lại tẻ nhạt và buồn chán đến thế “so blue”. Quả thật, Syd Barrett đã chán ngấy với tham vọng của ban nhạc, chán ngấy những áp lực của các buổi biểu diễn liên tục và cũng chán ngấy khi phải là tâm điểm của mọi sự kì vọng. Có lẽ với Syd giờ đây, Pink Floyd là thứ ông hết đỗi trân trọng, nhưng lại là thứ làm cho ông chán ghét nhất trên đời.

Có phải là ý đồ của Syd hay không khi mà chỉ hai câu nhạc ngắn ngủi này, nhịp điệu của bài hát bỗng chuyển qua nhịp 2/4. Hợp âm được Syd chơi là sự đan xen kết hợp của Đô trường và La thứ, vốn là hai gam nhạc đồng nhất về nốt nhạc và chỉ khác nhau về yếu tố cảm xúc tới người nghe. Nó làm chúng ta phải phân vân xem nhịp điệu này là vui hay là buồn, là thực hay là ảo. Một phép chuyển đổi như không chuyển đổi rất tinh tế của Syd Barrett, dẫn dắt người nghe đến những biến chuyển mạnh mẽ hơn ở những đoạn nhạc phía sau.

And I'm grateful that you threw away my old shoes
And brought me here instead dressed in red
And I'm wondering who could be writing this song

Chỉ trong ba câu hát ngắn ngủi này thôi mà bài hát đã chuyển nhịp tới ba lần (từ 2/4 về lại 3/4 và chuyển về 2/4 rồi lặp lại 3/4). Cùng với đó, những hợp âm khác đã được Syd đưa vào theo chiều đi xuống theo sự chuyển biến của gam nhạc từ Đô trưởng xuống Rê trưởng. Ở đây, hàng loạt những hợp âm lạ tai với đủ các nốt thăng giáng được Syd đưa vào một cách ngẫu hứng, chính là thứ âm thanh chromatic đã gắn liền với tên tuổi của ông. Từ những khuông nhạc tưởng chừng vui vẻ và lạc quan thì ẩn chứa bên trong là những điều tăm tối và đáng sợ. Cái chiều đi xuống của gam nhạc và các hợp âm cũng là thứ mà ta hay thấy xuất hiện trong âm nhạc của Syd. Chúng tạo ra khó khăn cho người ca sĩ muốn thể hiện nó vì độ phức tạp và biến đổi tinh tế của từng nốt nhạc. Vì thế, âm nhạc thông thường sẽ có chiều đi lên, chứ hiếm khi có chiều đi xuống để nhấn chìm cảm xúc của người nghe như trong bài hát này.

Một lần nữa ta lại nhận thấy bao trùm ở đây là giọng văn hết sức lịch sự một cách thái quá đến mức độ như chế nhạo của Syd. Từng câu hát dù trong cùng một đoạn nhưng lại đứt gãy vì những biến đổi mạnh mẽ về âm nhạc, hệt như những dòng hồi ức đáng quên đang quay chậm lại trong tâm trí của Syd. Đó là cảm giác của ông khi bị vứt bỏ như một đôi giày cũ đã mòn để Pink Floyd tiếp tục đi tiếp một chặng đường mới. Họ vẫn cần Syd ở đây, nhưng chỉ như một con rối đẹp đẽ để khán giả không phải hụt hẫng khi tìm tới Pink Floyd mà không nhìn thấy gương mặt đại diện của ban nhạc, dù quả thực ông có chơi hay không chơi đi chăng nữa, như chính Syd đã thử vài lần trước đây trong các buổi công diễn. Tuy nhiên, chúng ta lại không nhìn thấy ở đây sự giận giữ mà chỉ thấy có một nỗi buồn sâu thẳm. Kết lại đoạn là câu hỏi Syd muốn đặt cho chính bản thân mình: ai đang viết bài hát này nhỉ? Là ngôi sao Syd Barrett đang cố gắng sáng tạo để góp sức vào thành công của ban nhạc, hay là chàng trai Roger Barrett muốn thức tỉnh và khuyên nhủ cho những người bạn của mình rằng đừng chạy theo những thứ phù phiếm nữa, hãy ở lại sát cánh với tôi và cùng say mê khám phá âm nhạc. Không ai biết câu trả lời cho câu hỏi này, kể cả Syd. Đoạn nhạc kết thúc với một câu hỏi vô định kết hợp thật hoàn hảo với điệu nhạc chromatic khiến người nghe phải trông chờ cho một câu trả lời mà mãi mãi không bao giờ xuất hiện. Đó, cái chất “Blues” của Syd là ở đây đó, không có những tiếng đàn réo rắt ngẫu hứng, chỉ có lời hát và tiếng guitar mộc mạc cũng đủ cho người nghe hiểu được cái cảm giác sầu đời của một kẻ bị bỏ lại phía sau.

I don't care if the sun don't shine
And I don't care if nothing is mine
And I don't care if I'm nervous with you
I'll do my loving in the winter

Bất chợt một giai điệu vui tươi mang đậm phong cách Rock những thập niên 60 được vang lên trong không gian sâu thẳm bỏ lại từ đoạn nhạc trước. Vẫn là cung nhạc Rê trưởng, nhưng ở đây Syd chỉ lựa chọn chơi các hợp âm trưởng mà không hề sử dụng một hợp âm thứ nào, như nỗ lực giữ lấy chút gì tích cực bằng âm nhạc. Nhưng đằng sau niềm vui giả tạo bởi giai điệu ấy là những dòng lyric hết sức đối lập. Như nụ cười nở trên môi kẻ đã lâm vào đường cùng, những câu hát này là những lời chấp nhận và buông bỏ: Tôi chẳng thèm quan tâm đến cuộc đời hay chân lý gì nữa, tôi cũng chẳng quan tâm mình sở hữu cái gì và bây giờ tôi cũng đã quá chán chường để mà phải quan tâm tôi phải trình diễn như thế nào trước khán giả, báo giới hay xã hội nữa. Đây là hình ảnh của Syd trong những chuyến lưu diễn cuối cùng. Có phải là Syd đã suy sụp tinh thần nặng nề đến nỗi ông không thể lên biểu diễn được, hay là vì Syd đã hiểu ra rằng những thứ mình đang làm thật là vô nghĩa. Syd không sinh ra để chạy tour, để viết nhạc như một cái máy. Ông đến với âm nhạc để chia sẻ, để khai sáng cho mọi người như phép nhiệm màu của “the Piper” trong truyện cổ tích năm nào. Nhưng có lẽ chẳng ai nghe được tiếng cầu cứu của ông, dù là những người bạn thân thiết từ thuở thiếu thời. Giờ đây có lẽ chính họ cũng đã mờ mắt với danh vọng và sự nghiệp mất rồi

Trước khi đến với câu cuối cùng của đoạn này, cần phải bàn đến mối liên kết giữa ba câu đầu với phần chơi Instrumental tưởng chừng chỉ để trang trí ở phía sau. Nếu hiểu Syd, ta sẽ thấy ông không bao giờ chơi thừa, phong cách của ông là đi thẳng vào cảm xúc người nghe cơ mà. Đoạn Instrument đầu tiên là tiếng nhạc vui tươi và hòa hợp của một ban nhạc diễu hành. Hãy thử tưởng tượng trong đầu về hình ảnh của một ban nhạc diễu hành, bạn sẽ thấy điều gì? Với tôi, đó là sự hào nhoáng và có phần khoa trương trong trang phục. Tôi cũng thấy ở đó âm nhạc chỉ là thứ yếu mà điều quan trọng hơn là sự trình diễn phải thật đều và thật đẹp, âm thanh phải càng ồn ã và huyên náo. Những âm thanh đó có lẽ là cảm nhận của Syd về đường hướng mà Pink Floyd đang tiến tới, xem trọng sự trình diễn hơn là kỹ thuật và phá cách, rời khỏi phong cách Psychedelic ban đầu để hướng tới cái không khí Progressive.

Sang tới đoạn Instrumental thứ hai, cũng là ban nhạc diễu hành đó nhưng giờ đây họ chơi như chẳng ăn nhập gì với nhau nữa. Đây hoàn toàn là dụng ý của Syd khi nói với ban nhạc được mời tới phòng thu: thích chơi gì thì cứ chơi. Vậy dụng ý đó là gì? Trong đoạn này, Syd Barrett đã khéo léo mở cửa để người nghe nhạc có thể ngó thấy một phần tâm hồn của ông. Những gì chúng ta nghe ở đây cũng vẫn là đoạn Instrument đầu tiên thôi, nhưng qua đôi tai Syd sao những âm thanh đó lại hỗn loạn và lạc nhịp đến vậy. Có phải đó là những gì Syd nghe thấy khi đang cùng ở trên sân khấu với những thành viên khác của Pink Floyd trong những tour diễn đình đám khắp nước Mỹ? Chính phút giây ấy, ông chợt nhận ra thứ nhạc ông chơi giờ đã không còn đồng điệu với ban nhạc nữa rồi. Syd quả thực không muốn điều đó, ông muốn cố gắng không nghe thấy gì để đầu óc minh mẫn mà không thể. Ông muốn tìm cách trốn tránh nhưng chẳng còn gì để bấu víu lại nữa rồi. Những tiếng hát “la la la la la” của Syd kết lại đoạn nhạc một cách đầy ám ảnh. Syd đã hóa điên trong nỗ lực yếu ớt của mình hay đó là con đường trốn chạy của ông?

“And if the cloud bursts, thunder in your ear.
You shout and no one seems to hear.
If the band you're in starts playing different tunes.
I'll see you on the dark side of the moon.”
- Brain Damage – The Dark Side of the Moon – Pink Floyd.

“I will do my loving in the winter”. Rời bỏ khỏi nhưng hào quang và ánh sáng sân khấu, Syd Barrett chính thức chia tay Pink Floyd năm 1968. Ông cho ra đời hai album solo riêng, tham gia một số buổi biểu diễn trước khi giã từ hẳn sự nghiệp âm nhạc của mình, vào đúng lúc mà Pink Floyd vươn lên đỉnh cao của âm nhạc với album The Dark Side of the Moon năm 1972. Chàng thanh niên ngời sáng ngày nào với bao hoài bão, nay dứt áo trở về quê hương nhưng với những đám mây u ám đeo đuổi từ quá khứ đáng quên. Syd đã thực sự mất đi tất cả - “nothing is mine”. Ông mất đi sự nghiệp còn đang dang dở, mất đi niềm đam mê nghệ thuật lớn nhất trên đời và hơn thế nữa ông đã mất những người bạn tưởng như thân thiết, gắn bó nhất với mình, giờ đây đang say sưa trong vinh quang và danh vọng. Nhưng ông có quan tâm đến điều đó hay không? Không, Syd Barrett đã chết ở London vào cái ngày mà ông chia tay với ban nhạc. Giờ đây chỉ còn có một gã điên với cái tên Roger Barrett ở thành phố Cambridge mà thôi. Ông vẫn theo đuổi đam mê nghệ thuật của mình qua hội họa, dù có thể ông sẽ chẳng nổi danh và chẳng còn có ai biết đến tên tuổi ông nữa. Đó là cái “loving in the winter” của Roger. Đó là sự lựa chọn cuối cùng của ông.

And the sea isn't green
And I love the queen
And what exactly is a dream
And what exactly is a joke

Khổ nhạc cuối cùng vang lên với một giọng ca mệt mỏi và chán chường, trong những gam nhạc vô định chơi trên tiếng guitar lệch tông. Những từ “and” lặp đi lặp lại, tưởng như một con người đang cố gắng kéo dài câu chuyện, níu kéo lại những phút giây tuyệt vời cuối cùng trước khi phải chia tay. Hai câu đầu theo tôi nó thực sự là vô nghĩa theo đúng chủ đích của Barrett. Giờ đây ông biết rằng mình sẽ phải hóa thân thành một gã điên khùng, lẩm bẩm những lời vô nghĩa. Chúng ta thừa biết Barrett cũng chẳng thèm quan tâm tới màu sắc của nước biển hay những thứ chính trị thừa thãi bao giờ. Roger Barrett kết lại bài hát bằng hai câu hỏi đầy ám ảnh mà thâm sâu: cái gì là mơ, cái gì là thực? Cái gì là thứ mà người ta đáng phải tôn sùng, còn cái gì là trò cười cho thiên hạ? Chúng ta hãy thử ngẫm xem, câu trả lời là gì. Với Syd, câu trả lời của ông là tất cả chúng giờ chẳng khác gì nhau nữa. 

Vậy thì Roger Barrett có phải là một gã điên không? Tôi không tin là như thế, chí ít là cho tới lúc viết Jugband Blues. Trong bao nhiêu năm chạy chữa, chưa bao giờ có vị bác sỹ nào xác nhận rằng ông bị tâm thần cả. Có thể lý do là vì cái tôi quá lớn của Roger Barrett. Ông không muốn chấp nhận thất bại trong cuộc chiến về tư tưởng âm nhạc với những thành viên khác của Pink Floyd. Cái cách trốn tránh của ông lựa chọn là giả điên để về quê nhà, trốn tránh khỏi xã hội và đắm mình vào thú vui hội họa. Trong suốt những năm tháng ở Cambridge, ông hầu như chẳng bao giờ rời khỏi nhà, những người gần gũi nhất với ông chỉ là những người thân trong gia đình. Roger Barrett không hề phát điên mà ông chỉ chẳng quan tâm nữa, mặc kệ cho xã hội cứ xoay vần, mặc kệ cho thời gian cứ thế trôi đi. Vào một mùa hè năm 2006, Roger Keith Barrett vĩnh biệt cõi đời ở thành phố Cambridge yên bình với dòng sông Cam lững lờ chảy trôi mỗi ngày.

Shine on You Crazy Diamond - Pink Floyd

Kết

Về mặt âm nhạc mà nói, Jugband Blues là sự kết hợp hoàn hảo của tất cả những gì tinh túy nhất về âm nhạc mà Syd Barrett dành cho Pink Floyd. Nào là tritone paradox ẩn sâu trong cấu trúc của bài hát, nào là những nốt chromatic theo chiều đi xuống đầy cảm xúc, nào là những biến đổi kỳ ảo của nhịp điệu. Một bài hát mang đậm phong cách của Pink Floyd dưới thời Syd Barrett, âm nhạc hoàn toàn được dẫn dắt bởi những dụng ý của lời hát, cái điều mà Roger Water đã kiên trì theo đuổi trong suốt sự nghiệp của mình. Jugband Blues là một bài hát thật buồn trong nền giai điệu vui tươi giả tạo. Nó cũng trớ trêu, bi kịch và đầy nghịch lý như cũng chính số phận của Syd Barrett. Hay nói một cách khác, Jugband Blues chẳng khác gì một cuốn tự truyện âm nhạc của Syd Barrett muốn để lại cho nhân loại, nhưng nó không phải cho tất cả mọi người, mà chỉ cho những ai cố gắng muốn hiểu ông mà thôi.

Thế nhưng, Syd Barrett với thời gian hoạt động âm nhạc ngắn ngủi của mình đã để lại cho nhân loại nhiều hơn thế, chỉ có điều là ông không biết hay chính ông cũng chẳng quan tâm. Không kể đến những đóng góp của ông trong thành công ban đầu của ban nhạc, Pink Floyd sẽ ở đâu nếu họ không biết bắt đầu từ những ca từ ma quái và hiệu ứng âm thanh – ánh sáng đầy cuốn hút mà Syd sáng tạo? Chính những đột phá từ một cá tính và tầm nhìn có phần khác người ấy đã trở thành ý tưởng xuyên suốt sự nghiệp của Pink Floyd. Dù ban nhạc có thành công đến mức nào thì cái bóng của Syd vẫn bám dính tới từng chặng đường của họ. Hãy thử nghĩ đến những album thành công vang dội nhất của Pink Floyd. The Dark Side of the Moon lấy cảm hứng của một con người phát điên vì cuộc sống và xã hội hiện đại. Wish You Were Here là album tribute cho chính Syd Barrett. Kể cả The Wall hay Animals, vốn mang đậm sự chi phối của Roger Water, vẫn có đâu đó sự đồng điệu với những tư tưởng mà Syd đã đưa ra từ hàng chục năm về trước.

Vậy thì khi nghe nhạc của Pink Floyd, xin hãy đừng chỉ nghĩ tới mỗi bốn nghệ sỹ tài năng được gắn tên trên bìa đĩa album. Hãy nhớ rằng đứng đằng sau những cái tên đó là một hình bóng lẩn khuất, đó là cái bóng vĩ đại của thành viên thứ năm của ban nhạc. Một kẻ nghiện ngập, một kẻ đi khai sáng, một họa sỹ, một vị thần, và cũng là một gã tù nhân: Syd Barrett.

“Come on, you raver, you seer of visions
Come on, you painter, you piper, you prisoner, and shine”
- Shine on You Crazy Diamond – Wish You Were Here – Pink Floyd.